Vĩnh biệt nhạc sỹ Bằng Giang (1938 – 2024)

Ngày 8/10/2024, người yêu nhạc lại nhận thêm một tin buồn: nhạc sỹ Bằng Giang, tác giả của những bản nhạc đã quá quen thuộc như ‘Thành phố mưa bay’, ‘Người em xóm đạo’ đã vĩnh viễn ra đi, để lại cho đời bao niềm tiếc nhớ.

Trong một bài viết trước, Dòng Nhạc Xưa đã giới thiệu đôi nét về sinh hoạt văn nghệ của nhà nhạc sỹ trước 1975 ở vùng đất Biên Hòa (Đồng Nai).

Theo Wikipedia, ông tên thật là Trần Văn Khởi, sinh năm 1938 tại Biên Hòa.

Lớn lên, ông tham gia văn nghệ cho các trại lính ở Biên Hòa. Năm 1962, ông được người bà con là chủ hầm đá ở Bửu Long giúp đỡ cho cùng với Chế Linh. Hai sáng tác đầu tiên của ông đồng tác giả với Chế Linh là Đêm buồn tỉnh lẻBài ca kỷ niệm. Ngoài ra, ông còn có một số sáng tác riêng cũng rất nổi tiếng là Thành phố mưa bay, Người em xóm đạo, Người về đơn vị mới

Từ năm 1992, ông sang định cư tại tiểu bang Georgia, Hoa Kỳ. Tại đây ông tiếp tục sáng tác, phổ thơ của các nhà thơ như Thy Lệ Trang, Hoàng Ánh Nguyệt.

Qua bài viết này, Dòng Nhạc Xưa xin gởi lời chia buồn đến tang quyến và cầu mong nhạc sỹ Bằng Giang dù ‘đã khuất vào trời mây” nhưng giai điệu đẹp mà ông để lại cho đời vẫn mãi còn đây!

Xin ghi chú nguồn Dòng Nhạc Xưa và các nguồn có liên quan khi trích dẫn!

Những ca khúc về bão lũ

Cơn bão Yagi, còn gọi là bão số 3, đổ bộ vào miền Bắc Việt Nam đầu tháng 9/2024 đã gây ra nhiều thảm họa mà không một ai có thể hình dung nổi. Với sức gió kinh hoàng, đánh thẳng vào Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Nội và nhiều tỉnh thành khác, cơn bão đã để lại hậu quả khủng khiếp cho đồng bào máu mủ.

Trong bài viết này, Dòng Nhạc Xưa xin giới thiệu đến người yêu nhạc vài nhạc phẩm viết về tình người trong cơn hoạn nạn, để qua đó mong sưởi ấm, vỗ về những mảnh đời cơ cực.

Quê Em Mùa Nước Lũ (Sáng tác: Tiến Luân | Trình bày: Hương Lan).
Thương Lắm Miền Bắc Ơi (Sáng tác: Hoài Duy | Ca sỹ: Lê Cường).
Bão Lũ (Sáng tác & trình bày: Vũ Quốc Việt)
Nỗi Đau Bão Lũ Tràn Về (Sáng tác: Lê Quang Thịnh | Trình bày: Khang Lê)
Hướng Về Miền Bão Lụt Đau Thương (Sáng tác & trình bày: Văn Nhi Phan)
Nước Lũ Miền Trung (Sáng tác: Sơn Hạ| Trình bày: Văn Hương)
Miền Trung Mùa Bão Lũ (Sáng tác: Cáp Anh Tài | Trình bày: Trung Nghĩa) 

Tiến Quân Ca (Văn Cao)

Hôm nay, ngày 2/9, ngày Quốc Khánh nước Việt Nam, Dòng Nhạc Xưa xin giới thiệu đôi nét về bản ‘Tiến Quân Ca’ bất hủ của nhạc sỹ Văn Cao, cũng là quốc ca của dân tộc.

Bài Tiến quân ca – Quốc ca của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do nhạc sĩ Văn Cao sáng tác tháng 12-1944. (Bản viết lại có chữ ký của tác giả năm 1994). Ảnh: https://baotanglichsu.vn
Bản thảo bài “Tiến quân ca” của nhạc sĩ Văn Cao. (Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông Phủ Thủ tướng, hồ sơ 590, tờ 3). Link

Hoàn Cảnh Ra Đời

(Nguồn: Wikipedia)

Mùa đông năm 1944, Văn Cao gặp Vũ Quý, một cán bộ Việt Minh, ở ga Hàng Cỏ. Vũ Quý là người từng quen biết Văn Cao và đã động viên ông viết những bài hát yêu nước như Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca…Vũ Quý đề nghị Văn Cao thoát ly hoạt động cách mạng, và nhiệm vụ đầu tiên là sáng tác một bài hành khúc cho đội quân Việt Minh.

Văn Cao viết bài hát đó trong nhiều ngày tại căn gác số 45 Nguyễn Thượng Hiền. Ông có viết lại trong một ghi chép tháng 7 năm 1976 như sau:

“Tôi chỉ đang làm một bài hát. Tôi chưa được biết chiến khu, chỉ biết những con đường Phố Ga, đường Hàng Bông, đường Bờ Hồ theo thói quen tôi đi. Tôi chưa gặp các chiến sĩ cách mạng của chúng ta, trong khóa quân chính đầu tiên ấy, và biết họ hát như thế nào. Ở đây đang nghĩ cách viết một bài hát thật giản dị cho họ có thể hát được…”.

Trong một hồi ký tựa đề “Bài Tiến quân ca”, Văn Cao cho biết, khi ông sáng tác Tiến quân ca thì có Phạm Duy ở cùng, và:

“Anh rất tôn trọng những phút tôi ngồi vào bàn với tập bản thảo và chờ đợi âm thanh từng câu nhạc được nhắc đi nhắc lại. Anh là người chứng kiến sự ra đời của bài Tiến quân ca”.

Về ca khúc, Văn Cao nói rằng, tên bài hát và lời ca của nó là một sự tiếp tục từ ca khúc ‘Thăng Long hành khúc ca’ trước đó: “Cùng tiến bước về phương Thăng Long thành cao đứng” và bài Gò Đống Đa: “Tiến quân hành khúc ca, thét vang rừng núi xa”… Và ông đã rút lại những ca từ trong bài hát đó thành ‘Tiến quân ca’.

Phần ca từ trong bài hát ở thời điểm mới ra đời có nhiều khác biệt so với sau này, như:

* Câu đầu ‘Đoàn quân Việt Nam đi’, thì ban đầu là ‘Đoàn quân Việt Minh đi’.

* Câu thứ sáu của bài hát ở phiên bản đầu là “Thề phanh thây uống máu quân thù” thể hiện sự căm phẫn, đau đớn của Văn Cao trước sự tàn bạo của thực dân Pháp và trước nạn đói đang xảy ra, về sau được nhiều người góp ý, tác giả đã sửa thành “Đường vinh quang xây xác quân thù”.

* Câu kết: “Tiến lên! Cùng thét lên! Chí trai là nơi đây ước nguyền!” được Văn Cao sửa thành “Núi sông Việt Nam ta vững bền”, nhưng đến khi xuất bản thành Quốc ca, ai đó đã sửa thành “Nước non Việt Nam ta vững bền”. Việc này, theo Văn Cao:

“Với một ca khúc đòi hỏi trang nghiêm, chữ nước non hát lên bị yếu. Chữ núi sông hát khỏe và hùng tráng”.

Sau khi hoàn thành tác phẩm, Văn Cao gặp và hát cho Vũ Quý nghe. Vũ Quý rất hài lòng, giao cho Văn Cao tự tay viết bài hát lên đá in. Và lần đầu tiên Tiến quân ca được in trên trang văn nghệ của báo Độc Lập tháng 11 năm 1944 bằng bản in đá do chính Văn Cao viết.

Ngày 17 tháng 8 năm 1945, ca khúc được hát trước quần chúng lần đầu tiên tại một cuộc mít-tinh của công chức Hà Nội bởi Phạm Duy, đây cũng là người đã buông lá cờ đỏ sao vàng của Việt Minh thay cho cờ của chính phủ Trần Trọng Kim và cướp loa phóng thanh hát ‘Tiến quân ca‘, mà theo Văn Cao:

“Con người trầm lặng ấy đã có sức hát hấp dẫn hàng vạn quần chúng ngày hôm đó”.

Còn nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi, sau khi nghe Văn Cao hát bài hát này, đã xúc động thật sự, và đề nghị mỗi người viết một bài hát nữa về mặt trận Việt Minh. Sau đó Nguyễn Đình Thi viết được bài ‘Diệt phát xít’, Văn Cao viết thêm bài ‘Chiến sĩ Việt Nam‘, cả hai bài hát này đều phổ biến rộng rãi trong công chúng.

Xin ghi chú nguồn Dòng Nhạc Xưa và các nguồn có liên quan khi trích dẫn!

Về Với Cát Bụi (Minh Kỳ)

Mùng năm Tết Giáp Thìn 2024 trùng với là lễ Tro bên đạo Công Giáo. Thứ Tư Lễ Tro hàng năm đánh dấu 40 ngày Mùa Chay, thời gian để các tín hữu bớt lo cho việc ăn uống (thân xác) để biết hãm mình và làm nhiều việc bác ái. Về mặt nghi lễ, mỗi Kito hữu sẽ được linh mục xức tro lên đầu, nhắc nhớ rằng chúng ta sau khi từ giã trần gian, chỉ có linh hồn là tồn tại mãi mãi, còn thân xác sẽ hóa thành tro bụi.

Trong dòng nhạc Việt, có những bản nhạc thật sâu sắc viết về thân phận cát bụi của con người. Nổi tiếng nhất trong số đó có lẽ là “Cát bụi” của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn mà chúng tôi đã giới thiệu trước đây. Hôm nay, Dòng Nhạc Xưa xin đem đến một nhạc phẩm khác với tựa đề “Về với cát bụi” của nhạc sỹ Minh Kỳ.

Trong tờ nhạc gốc xuất bản đầu năm 1975, tựa đề bài hát này là “Về với cát bụi”; tuy nhiên không hiểu sao sau này và cho đến tận bây giờ, một trong những sáng tác cuối cùng nhạc sỹ Minh Kỳ lại thường được ghi là “Trở về cát bụi”.

Về Với Cát Bụi (Minh Kỳ). Nguồn: HopAmViet.vn

Minh Kỳ là một trong ba nhạc sỹ của nhóm Lê Minh Bằng, cùng với Lê Dinh và Anh Bằng. Ông sinh năm 1930 và mất ngày 31/8/1975 trong khi đang đi học tập cải tạo. Như vậy có thể nói “Về với các bụi” là một trong số những sáng tác cuối cùng của nhà nhạc sỹ vốn xuất thân là một sỹ quan cảnh sát của Việt Nam Cộng Hòa.

Nhân ngày Lễ Tro, Dòng Nhạc Xưa xin gởi đến người yêu nhạc gần xa bản “Về với cát bụi” cho linh hồn nhạc sỹ Minh Kỳ vui hưởng hạnh phúc đời đời ở miền hạnh phúc vô biên.

Xin ghi chú nguồn Dòng Nhạc Xưa và các nguồn có liên quan khi trích dẫn!

Khúc Nhạc Ngày Xuân (Nhật Bằng)

Những ngày sau hiệp định Genève 1954, khi tiếng súng tạm ngưng và nền cộng hòa mới chớm nở ở Miền Nam, theo dòng người di cư tìm về vùng đất mới, nhạc sỹ Nhật Bằng đã cho ra đời một ca khúc xuân vui tươi, đầy lạc quan: Khúc Nhạc Ngày Xuân.

Nghe lại giai điệu slow fox rộn ràng rất Tây, chúng ta khó hình dung được bản nhạc xuân này được sáng tác gần 70 năm trước, khi nền tân nhạc Việt Nam vẫn còn chưa hội nhập nhiều với âm nhạc thế giới.

Nguồn: AmNhacMienNam.blogspot.com

Phần hình thức đã hay và phần nội dung cũng đặc sắc không kém. Nhạc sỹ Nhật Bằng qua những ca từ đơn giản, mộc mạc đã vẽ nên một bức tranh xuân đầy màu sắc với “ngàn hoa thắm tươi”, “đàn chim tung cánh bay”, “nắng xuân chiếu qua lá mờ”,…

Nhân dịp đầu Xuân Giáp Thìn 2024, Dòng Nhạc Xưa xin trân trọng gởi đến người yêu nhạc bản “Khúc Nhạc Ngày Xuân” của nhạc sỹ Nhật Bằng và kính chúc quý vị xa gần một mùa xuân thật ấm áp.

Xin ghi chú nguồn Dòng Nhạc Xưa và các nguồn có liên quan khi trích dẫn!

Nếu Xuân Này Vắng Anh (Bảo Thu)

Bên cạnh một sáng tác vui tươi “Xuân trong rừng thẳm” mà chúng tôi đã giới thiệu trong bài viết trước, nhạc sỹ Bảo Thu còn có một nhạc phẩm nổi tiếng khác viết về mùa xuân: Nếu Xuân Này Vắng Anh. Nhân dịp đầu Xuân mới, Dòng Nhạc Xưa xin giới thiệu ca khúc xuân đặc sắc này.

Theo lời tâm sự của nhà nhạc sỹ (Nguồn: Tiền Phong)

Ca khúc Nếu xuân này vắng Anh được nhạc sĩ Bảo Thu sáng tác vào cuối năm 1967. Đó là thời điểm ông nhận đặt hàng từ Hãng đĩa Việt Nam để sáng tác một ca khúc về mùa Xuân.

Ông kể, do thời gian quá gấp nên khi viết xong ông đã không kịp trau truốt lại phần giai điệu nên đã mời ca sỹ trẻ Trúc Ly thể hiện. Điều bất ngờ là bài hát đã được công chúng đón nhận, đồng thời bài háy làm cho tên tuổi của Trúc Ly được biết tới. Nếu xuân này vắng Anh sau đó cũng đoạt giải thưởng Ca khúc viết về mùa Xuân hay nhất của năm 1968 do khán giả bình chọn.

Nếu Xuân Này Vắng Anh (Bảo Thu). Ảnh: HopAmViet.vn

Không biết thực hư thế nào nhưng có một điều thú vị là chữ “Anh” trong bản này được viết hoa như một tên riêng “Anh”. Ngày đó Bảo Thu là chủ sự của chương trình “Tiếng ‘K’ Thời Đại” khá nổi tiếng trên đài truyền hình Việt Nam. Và trong thành phần ca sỹ có một giọng ca trẻ là ca sỹ Phương Anh.

Mà nếu đúng như vậy thì chúng ta chắc phải đặt thêm một dấu hỏi liệu chữ “Yến” cũng được viết hoa có phải ý nhắc đến ca sỹ Trang Kim Yến hay không?

Ngày Xuân nói chuyện vui thế thôi chứ mấy chuyện “thâm cung bí sử” này khó mà người yêu nhạc biết được tường tận, mà có khi càng bí ẩn lại hay phải không các bạn? 🙂

Xin ghi chú nguồn Dòng Nhạc Xưa và các nguồn có liên quan khi trích dẫn!

Xuân Trong Rừng Thẳm (Bảo Thu)

Nhạc xuân xưa không chỉ có các nhạc phẩm buồn. Trong bài viết trước, chúng tôi đã giới thiệu bản ‘Gió mùa xuân tới‘ đầy vui tươi của nhạc sỹ Hoàng Trọng. Hôm nay Dòng Nhạc Xưa xin mời người yêu nhạc nghe tiếp một sáng tác đầy lạc quan với giai điệu rộn rã của nhạc sỹ Bảo Thu: Xuân Trong Rừng Thẳm.

Bài này nhạc sỹ Bảo Thu ký dưới nghệ danh Trần Anh Mai. Theo lời tựa trên tờ nhạc, Bảo Thu sáng tác “Xuân trong rừng thẳm” nhân một chuyến công tác ở xứ lạnh Đà Lạt vào những ngày cuối năm 1968.

Ảnh: Trung Tâm Thúy Nga.
Ảnh: VNGuitar.net

Nhạc phẩm gợi lên một nét tương phản giữa khung cảnh núi rừng xa xôi, nơi người chiến sỹ phải “ghì tay tay súng” để “giữ xuân bền lâu” cho mọi nhà với sự nô nức “có dáng xuân vui” ở chốn thành đô.

Có đôi chút luyến tiếc, chạnh lòng nhớ về cố hương nhưng tuyệt đối người chiến sỹ trong “Xuân trong rừng thẳm” vẫn giữ được tinh thần lạc quan để vừa đón xuân nơi núi rừng, vừa làm tròn nhiệm vụ.

Cảm ơn nhạc sỹ Bảo Thu đã để lại cho hậu thế một nhạc khúc thật hay, đầy ý nghĩa cho chúng ta thưởng thức mỗi dịp xuân về!

Xin ghi chú nguồn Dòng Nhạc Xưa và các nguồn có liên quan khi trích dẫn!

Gió Mùa Xuân Tới (Hoàng Trọng)

Phần lớn nhạc xuân xưa mang tâm sự buồn và vì thế giai điệu thường là chậm rãi, sâu lắng. Tuy nhiên cũng có một số nhạc phẩm vui tươi, làm cho lòng ta thấy phấn chấn, yêu đời hơn. Trên tinh thần đó, Dòng Nhạc Xưa xin trân trọng giới thiệu bản ‘Gió mùa xuân tới’ của nhạc sỹ Hoàng Trọng.

GIó mùa xuân tới (Hoàng Trọng). Ảnh: MuaBanSachCu.com

Gió đông non

(Nguồn: bài viết của tác giả Nguyễn Hộp đăng trên vanhoavaphatrien.vn ngày 13/03/2022)

Sau một mùa đông dài, vạn vật đã rất mệt mỏi chống chọi với hanh khô, giá rét…

Rồi mùa Xuân cũng đến với những cơn gió đông ấm áp làm bừng tỉnh sức sống mới.
Những cơn gió đông của nửa đầu mùa Xuân, người quê tôi gọi là “Gió đông non”.

Nhưng tại sao lại gọi là gió đông non?

Thứ nhất là do gió đông thổi suốt từ mùa Xuân qua mùa Hạ, đến tận cuối mùa Thu. Vì vậy gió đông nửa đầu mùa Xuân là gió mới, nên gọi là gió đông non.

Thứ hai cũng như gió heo may, thổi cuối mùa Thu mang hơi lạnh yếu từ phương Bắc đến, làm cho thời tiết rất mát và dễ chịu, nhưng càng giáp Đông thì hơi lạnh càng tăng, tiết trời se lạnh và càng lạnh thêm. Lúc này gió heo may được gọi là “Gió heo may cào”. Gió đông non tuy mang hơi ấm từ biển, nhưng chưa đủ để xua tan cái lạnh của mùa Đông. Nếu gió thổi nhẹ thì mát và dễ chịu, nhưng nếu gió thổi mạnh hơn một chút sẽ thấy se lạnh, thậm chí còn rất lạnh.

Người xưa có câu: “Gió đông non là con gió heo may cào”. Nhắc nhở mọi người không được chủ quan, phải chú ý mặc quần áo vừa đủ ấm, tránh bị cảm lạnh. Nhất là người già, trẻ nhỏ và những người có tiền sử bệnh đường hô hấp rất mẫn cảm với kiểu thời tiết này.

Gió đông non mang hơi ấm từ biển với độ ẩm vừa phải, kết hợp với nắng Xuân dịu nhạt…như thúc giục cỏ cây đâm chồi non, lộc biếc, gọi trăm hoa đua nở.

Tiếng chim hót véo von đón bình minh thức dậy. Trên cánh đồng làng, lúa xuân đang thì con gái, những cô thôn nữ khỏe khoắn, xinh tươi đang chăm bón ruộng đồng. Thấp thoáng những cánh cò trắng bay ngang…tô điểm cho bức tranh quê thêm đẹp, thanh bình và lãng mạn vô cùng!

Khi hoàng hôn vừa buông xuống là lúc ếch nhái, côn trùng gọi nhau hoan hỷ…tạo nên bản nhạc đồng quê thật du dương, trầm bổng!

Làng quê mùa “Gió đông non” căng đầy nhựa sống, như chất xúc tác nuôi dưỡng ước mơ, khát vọng của tuổi trẻ trên con đường lập thân, lập nghiệp. Là ký ức của tuổi già…là nỗi nhớ quê hương của người xa xứ.

Với tôi mùa “Gió đông non” là tiết trời vô cùng đẹp mà thiên nhiên ban tặng cho con người và vạn vật.

Mấy ngày nay tiết trời thật đẹp, “Gió đông non” thổi nhẹ. Vậy mời mọi người hãy ra ngoài trời tắm nắng Xuân, hoà mình với thiên nhiên…thưởng thức “Gió đông non” mát lành, sảng khoái lắm đấy.

Mùa gió xuân

(Nguồn: bài viết của tác giả Nguyễn Thụy Vân Anh đăng trên BaoBacLieu.vn ngày 28/02/2018)

Mùa gió xuân về trong xạc xào tiếng lá. Nghe trong gió hương hoa dại bên đường bung nở, những cánh hoa mỏng manh bay bay trong giọt nắng trong veo miền cổ tích. Ta lang thang trên triền đê lộng gió, nhẩm tính lại tháng ngày chật chội với những bủa vây đời mình. Ta an yên đón ngọn gió mùa ùa vào vội vã như gội rửa lòng mình sau bao ngày tất tả ngược xuôi.

Làng quê mùa xuân. Ảnh: BaoDienBienPhu.com.vn

Những ngày đầu năm bình yên đến lạ. Khói lam chiều thê thiết bên sông, nơi góc bếp bình dị mẹ ngồi nhóm lại ngọn lửa nồng nàn cháy bỏng. Ngọn lửa bao lần thắp lại trong ta những chiều xa xứ. Dáng mẹ gầy hao, sợi tóc bạc vương vào chiều buốt giá. Ta về ngồi cùng mẹ, tựa đầu vào vai mẹ để mặc mẹ càm ràm chuyện chồng con. Để ta biết được bình yên nhất vẫn là bờ vai của mẹ. Ba ngồi uống trà trước sân, tách trà thơm khói bốc lên dậy hương đồng gió nội. Ba nhắc nhiều những chuyện đã qua, nhắc con gái mau tìm cho mình một bến bờ để tựa nương, để những thân già không lo nghĩ về đứa con gái long đong những chiều nhạt nắng. Ba không còn vuốt tóc ta như những ngày thơ dại, ba không còn cõng ta qua con đê dài những ngày mưa gió, ba vẫn ngồi đó kể chuyện tháng năm. Thời gian như khuất lấp lòng người, ta bao lần ước mình bé lại, đủ để vòng tay ôm ba những ngày mưa sấm giật.

Bến sông chiều từng ngọn gió xuân thổi tràn cả miền thương nhớ. Con đò nằm ru mình trên bến. Bao người phụ nữ quê tôi đã đứng nơi bến sông chờ những bóng người đã dần xa khuất. Những cuộc chờ chết lặng dưới dòng nước đỏ ngầu váng vất cả mặt sông. Hàng cây bên đường xôn xao mùa gió mới. Trong cái hồ hởi của đất trời, ta đứng lặng trong chiều nhìn những ký ức  mờ dần trong tiếc nuối đổ tràn. Nhành hoa tím bên đường ngày nào vẫn tím đến kiệt cùng, ngắt một nhành hoa của ngày xưa khờ dại. Ký ức vẫn vẹn nguyên như thuở ban đầu, chỉ có bóng người đã hun hút miền chân trời xa thẫm. Thả cánh hoa theo dòng nước chảy trôi về nơi xa vắng. Gửi ánh nhìn của người ở lại, giờ khắc ấy một nỗi buồn lại tái sinh trong mùa gió mới.

Mùa gió xuân vụt đám trẻ lớn nhanh, trong chiếc áo còn thơm mùi vải mới, ta thấy lại đời mình trong bầy trẻ quê. Những tiếng cười giòn tan hòa vào nắng xuân rực rỡ. Dắt tay đứa trẻ qua con đường gồ ghề sỏi đá, ta như bước qua thêm một ngõ ngách của cuộc đời. Mẹ ngồi trú nắng bên hiên, chiếc radio vẫn phát những bài hát mùa xuân rộn ràng, nhắc nhớ. Mái nhà xưa nằm nép mình trong xóm nhỏ, ta ngồi nhổ từng sợi tóc bạc cho mẹ như găm vào lòng mình một nỗi buồn chất ngất. Mẹ cười. Những nếp nhăn xô nhau ken dày trên khuôn mặt lam lũ của mẹ. Ta muốn ôm mẹ vào lòng mà gào khóc cho thỏa thuê. Mẹ lại cười. Khi đứa con gái khờ giấu những sợi tóc bạc sau lưng. Ba trở về nhà sau ván cờ cùng mấy chú nhà bên. Nắm tay con gái trong mùa gió xuân cần mẫn, ba dúi vào tay ta một chiếc kẹp tóc xinh xinh. Lòng chợt bình yên đến lại, khóe mắt cay cay và bàn tay vẫn không ngừng siết chặt…

Ngoài kia, những ngọn gió xuân vẫn râm ran vũ khúc của đất trời. Vừa đón tuổi mới trong bình yên ấm áp, ta đón chờ những tháng ngày phía trước. Và dẫu có những do dự khiến lòng ta chùn bước. Nhưng tin chắc rằng, ta vẫn có một nơi để trở về trong nồng ấm chở che…

Nguyễn Thụy Vân Anh

Xin ghi chú nguồn Dòng Nhạc Xưa và các nguồn có liên quan khi trích dẫn!

Hành Trình Tìm Tự Do

Bài viết dưới đây là lời tâm sự của một Người Cha đã vào tuổi thất thập gởi cho đứa Con Trai, kể về một giai đoạn đau thương của dân tộc Việt Nam. Dòng Nhạc Xưa là thế hệ sinh sau năm 1975, chúng tôi tin rằng những dòng tâm sự rất thật của người viết, một nhạc sỹ đang an hưởng tuổi già ở vùng đất Hoa Kỳ tự do, phần nào giúp thế hệ trẻ có được góc nhìn chân thực hơn về hoàn cảnh đất nước trong những tháng ngày giông tố đã qua!

Xin chân thành cảm ơn tác giả đã cho phép chúng tôi chỉnh sửa vài đoạn và sử dụng toàn bộ nội dung bài viết!

Gởi cho Phong, Con Trai của Ba!

Hình ảnh bên dưới, cùng một loại thuyền đã đưa 17 người chúng ta đến Bến Bờ Tự Do.

Ngày 30/04/1975

Ba đã không có mặt tại Đại sứ quán vào ngày hôm đó! Ba đang ở đơn vị của mình, đơn vị cuối cùng Ba phục vụ trong quân đội. Đó là Trường Tình Báo Cây Mai. Tại nơi này, Ba là phiên dịch viên và giảng viên tình báo cho tân binh. Đây là trường duy nhất ở miền Nam huấn luyện nghiệp vụ tình báo, cách Sài Gòn khoảng 20 km về phía Bắc.

Ba và bạn hữu đã chiến đấu đến phút cuối cùng thì có lệnh của Đại tướng Dương Văn Minh là phải “rời bỏ hàng ngũ, trao trả cho Việt Cộng và về nhà.” Mọi người bỏ vũ khí và cố gắng tìm đường về nhà! Ba làm việc cho các Đơn vị Hoa Kỳ từ năm 1968 đến năm 1973, sau đó chuyển sang Quân đội Việt Nam khi họ bắt đầu rút khỏi Việt Nam!

Lúc đó Ba không muốn rời quê hương vì Ba nghĩ dù chính thể có thay đổi thì tất cả đều là người Việt. Hơn nữa, lúc đó mẹ và con còn ở Sài Gòn nên Ba không thể tự mình bỏ đi. Con chỉ mới được khoảng một tháng tuổi. Trong tâm trí Ba, Ba muốn ở lại quê hương, xây dựng lại đất nước sau những năm tháng chiến tranh.
Ba đã sai!

Một chế độ mới, một cuộc sống khác

Sau khi chiếm miền Nam và kiểm soát toàn bộ dải đất hình chữ S, chính quyền mới thông báo trên đài phát thanh, truyền hình rằng tất cả các thành viên chế độ cũ, kể cả quân nhân, đều phải trình diện chính với chính quyền địa phương mới. Họ chỉ được mang theo tiền hoặc lương thực đủ dùng trong 15 ngày để học hỏi về chế độ mới. Và kể từ đó, rất nhiều quân nhân chế độ Việt Nam Cộng Hòa bị đưa đi học tập ở các trại cải tạo trải dài khắp hai miền đất nước.

Ba buôn bán hàng hóa địa phương từ nhiều nơi khác nhau. Ba mua đồ ở thành phố này và bán ở thành phố khác. Như thuốc lá, hải sản, rượu,…bất cứ thứ gì họ muốn. Con và mẹ thỉnh thoảng cùng đi theo Ba! Nhiều người bạn của Ba đã bị bỏ tù một thời gian dài. Một số người trong số họ đã chết; những người khác không thể hoạt động. Ba đã mất liên lạc với họ! Xã hội lúc đó thật khủng khiếp!

Bản thân Ba, Ba đã tiêu hủy tất cả giấy tờ liên quan đến thân phận của mình, trong đó có tất cả những bức ảnh chụp trong thời gian Ba phục vụ trong các Đơn vị Hoa Kỳ. Ba bắt đầu kết nối với những người bạn cũ của mình và Ba đã tạo một vài ID mới và một số Mẫu đơn (Thẻ) mới cho chính mình. (Bây giờ Ba không ngại kể mọi chuyện.) Ba biết Ba cần những giấy tờ đó để đi và về những nơi khác nhau. Vào thời điểm đó việc đi lại thực sự khó khăn. Nếu mình muốn đến thăm ai đó ở một thành phố khác, mình phải nộp đơn qua an ninh thôn, rồi xã, rồi quận… cho họ biết mình sẽ ở đâu, lý do đến thăm và mình sẽ ở đó bao lâu! Ít nhất phải mất 2 ngày. Sau đó mình phải xếp hàng để mua vé xe đò! Có khi đến quầy lại không còn vé nữa! Mình phải đợi chuyến đi tiếp theo. Với giấy tờ đặc biệt của Ba, Ba có thể rời đi bất cứ lúc nào. Hôm nay Ba có thể là viên chức Chính phủ, ngày khác Ba có thể là nhân viên bán hàng cho một công ty tư nhân, ngày khác Ba có thể là giáo viên chính phủ hoặc công nhân xây dựng! Ba đã phải thay đổi danh tính của mình!

Phần lớn thời gian, con ở với Mẹ tại nhà Ông Bà Ngoại ở Sài Gòn. Ông Ngoại và Bà Ngoại của con có một cửa hàng ở Sa Đéc, một địa danh ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Ba cũng sống ở đó được vài tháng. Có lần, Ba làm công nhân vận tải cho một công ty xi măng, vận chuyển đá và xi măng đến và đi từ các thành phố khác nhau bằng sà lan (Xi măng Hà Tiên). Chỉ sau một chuyến đi, Ba suýt bị sa thải vì an ninh không xác định được Ba là ai. Ba biết họ đã gửi nhiều yêu cầu đến các cơ quan khác nhau để tìm kiếm quá khứ của Ba, nhưng họ không tìm thấy bất kỳ thông tin nào về Ba. Họ sợ Ba cướp thuyền rồi bỏ chạy. Ba bỏ trốn trước khi họ bắt được Ba.

Trong thời gian phục vụ, Ba đã được rèn luyện cách giữ im lặng. Bây giờ, sau 20 năm, Ba nghĩ sự thật phải được phơi bày. Ba đã tham gia vào Chương trình Phượng Hoàng dưới sự chỉ đạo của CIA, cố gắng tập trung và loại bỏ Cơ sở hạ tầng của Việt Cộng (VC). Ba là Người liên lạc và Thông dịch viên giữa Lực lượng Đặc biệt Việt Nam, P.R.U. (Đơn vị Trinh sát Tỉnh), Cảnh sát, G2 (Tình báo Quân đội) và Cố vấn Mỹ. Trong 5 năm, Ba đã tham gia nhiều cuộc hành quân. Vui có, nguy hiểm có, phấn khích, và cả sợ hãi…Ba đã nếm trải tất cả. Trực thăng của Ba bị bắn rơi hai lần khi đang quan sát trận chiến. Thật may mắn, Ba vẫn còn sống! Nhiều câu chuyện bí mật hơn về CIA và chiến tranh Việt Nam đã được trình chiếu. Các con nên xem tin tức trên CNN!

Ý định ra đi

Một ngày nọ, Ba trở về nơi Ba sinh ra. Ông Nội đã rất già. Ba dự định ở lại với Ông ấy và em gái của Ba (Cô của con) một thời gian. Đây là một làng chài. Việc di chuyển đến đó rất khó khăn vì chính quyền địa phương sợ người dân lợi dụng nơi này để trốn khỏi quê hương bằng thuyền. Nó đã xảy ra nhiều lần.
Ba đã phải liên hệ với bạn Ba (tại chính quyền địa phương) để nộp đơn rằng họ cần Ba về đây vì mục đích giáo dục!
Ba phải dạy tiếng Anh vào ban đêm cho trường học cộng đồng và dạy nhạc cho các lính biên phòng!
Ba đã được nhận. Sau đó Ba trở thành cư dân của nơi này, một ngư dân hợp pháp! Con và mẹ cũng đi cùng với Ba. Vì vậy, đây là cơ hội để Ba bắt đầu lên kế hoạch cho chuyến đi của mình!

Ba quyết định mình cần phải nghĩ ra kế hoạch trốn khỏi đất nước. Ba và bạn bè đã thực hiện kế hoạch này trong vòng một tháng. Ba và các bạn cần phải có 3 chiếc thuyền; một thuyền mang thức ăn và thuốc men; một thuyền chở dầu ; và chiếc lớn, không chở gì cả (cái thuyền này sẽ vượt đại dương). Một người bạn của Ba mua thức ăn cho thuyền, người khác mua xăng dầu, và Ba có thiết bị định vị, như la bàn và bản đồ đại dương. Kế hoạch diễn ra tốt đẹp, mọi việc di chuyển đều suôn sẻ, nhưng bạn bè Ba, họ không hề quen biết nhau.

Kế hoạch bại lộ

Một tuần trước khi lên đường, Ba quyết định cả bốn người trong tổ chức sẽ gặp nhau và lên kế hoạch chi tiết cho chuyến đi. Đây là lần đầu tiên họ biết ai là người liên quan. Sai lầm tồi tệ! Họ gặp nhau, và 1 ngày trước khi lên đường, 3 người bạn của Ba đã đi theo một người giàu có. Người này đã mua chuộc họ. Với những phương tiện có sẵn, họ đã lên đường và Ba thì ở lại.

Công an địa phương phát hiện ra Ba có liên quan đến chuyến đi này. Ba được thông báo rằng họ đang tức giận và đang tìm kiếm Ba. Ba phải rời khỏi đó càng sớm càng tốt.

Phương án mới

Ba nhanh chóng nghĩ ra một kế hoạch mới. Lúc đó không còn tiền nữa. Vợ Bác Ba giúp Ba liên lạc với 2 gã có tiền. Ba và Bác Ba dùng số tiền này để mua một chiếc thuyền khác, nhỏ hơn nhiều. Sau đó, Ba lại chuyển nhiên liệu và một số thực phẩm lên con thuyền này.

Cuối cùng, vài ngày sau, Ba và Bác Ba quyết định rời đi theo kế hoạch mới của mình. Nếu Ba và Bác Ba bị bắt, Ba sẽ không để bắt Ba và Bác vào cùng một thời điểm và cùng một địa điểm. Ba chia thành 3 nhóm: nhóm của Ba, nhóm của mẹ con (với Vân và hai người bạn) và nhóm của Bác Ba. Ba và mọi người sẽ gặp nhau trên một hòn đảo nhỏ ngoài khơi (Hòn Lao ở Mũi Né). Đêm đã khuya nên mỗi thuyền phải thắp một ngọn đèn nhỏ để Ba và Bác Ba nhận ra nhau.

Ngày định mệnh

Đêm Ba rời đi, Ba phải cho Vân uống thuốc ngủ, Vân mới 3 tháng tuổi để nó không khóc. Nó được 2 người khác cùng mẹ, quấn lưới đánh cá bên ngoài, rời làng đi một hướng khác. Ba đã chứng kiến họ vượt qua tất cả các điểm kiểm tra một cách an toàn. Anh trai Ba (Bác Ba) không ở cùng thị trấn nên đi thuyền khác cùng gia đình và 2 người khách. Họ đã đến điểm hẹn.

Ba rời đi sau nửa đêm, bằng chiếc thuyền mới mua, khoảng 2 giờ sáng. Ba đến hòn đảo và Ba đã tìm thấy anh trai mình. Nhưng Ba không thể tìm thấy vợ Ba. Ba và Bác Ba đợi khoảng một lúc khá lâu và không thấy gì. Ba và Bác Ba bắt đầu tìm kiếm chung quanh hòn đảo và bãi biển.

Sau khoảng nửa giờ vẫn không thấy bóng dáng chiếc thuyền đó. Ba đã rất bối rối. Tất cả mọi người đang đợi đều muốn đi. Ba không muốn rời đi mà không có Mẹ con và con gái, nhưng Ba cũng không muốn ở lại. Bác Ba Gái hỏi Ba quyết định như thế nào ? Ba trả lời là “Tùy Anh Chị, em thật sự không biết phải làm sao.”

Trời sắp sáng nếu không đi thì với số lượng người trên con thuyền bé nhỏ này sẽ là mồi ngon cho công an biên phòng. Bác Ba cho thuyền đi thêm một vòng chung quanh Hòn Lao, rộng hơn những vòng trước. Bất ngờ một người trong thuyền thấy được chút ánh sáng mờ nhạt trong màn đêm tắm tối. Một chiếc thuyền con đang nhấp nhô trước mặt. Bác Ba cho thuyền chậm lại và ghé sát chiếc thuyền kia. Đúng rồi, đúng rồi! Đúng là chiếc thuyền nhỏ bé có Mẹ con và em gái con cùng 2 người đồng hương! Họ đã quên mất cây đèn nhận diện nên không ai có thể nhìn thấy họ. Ba và mọi người hối hả đưa họ lên thuyền rồi rời đi. Hai chữ phép lạ nhiệm mầu ban xuống cho gia đình mình. Ai cũng hớn hở và cám ơn Trời Phật đã phù hộ.

Tuyệt vọng

Sau 32 giờ, con thuyền đi thẳng đến Hải phận Quốc tế như Ba đã dự định. Động cơ bị hỏng! Bác Ba đã cố gắng khắc phục nhưng không thể. Ba đã gặp nhiều tàu quốc tế to lớn. Những con tàu đi qua như đang đi trên đường cao tốc 4 làn xe. Nhiều tàu đi qua nhưng không ai dừng lại giúp đỡ. Điều đó thật tồi tệ.

Khi đó gió và hải lưu dịch chuyển về phía Bắc nên con thuyền không thể đi về phía Nam được nữa. Bác Ba dùng một tấm chăn lớn treo lên như một cánh buồm rồi đi về hướng Bắc. Một tuần trôi qua, không còn thức ăn hay nước uống. Kế hoạch của Ba là chỉ có đủ thức ăn và nước uống trong một tuần. Ba đã lên kế hoạch rằng Ba sẽ được giải cứu trên các tuyến đường vận chuyển quốc tế, nhưng thực tế không phải vậy. Ba thậm chí còn đỡ Vân lên để các con tàu có thể nhìn thấy nó, nhưng họ chỉ đi ngang qua. Lúc đó Ba không biết rằng nếu thuyền bị chìm thì theo luật, một con tàu phải đến cứu. Vì vậy, Bác Ba không bao giờ đánh chìm thuyền.

Thuyền vẫn hướng về phía Bắc. Thuyền không còn thức ăn và nước uống, Bác Ba chặt củi trong thuyền và nhóm lửa để đun nước. Ba cho nước biển vào xoong và sau đó nước sẽ bốc hơi. Ba lau hơi nước trên nắp bằng một miếng vải và vắt từng giọt nước ngọt từ miếng vải lên một cái muổng. Đó là cách để mọi người gượng sống.
Mỗi người uống khoảng 2 muổng mỗi ngày – đủ để tồn tại. Có 10 trẻ em và 7 người lớn. Con thuyền bị lạc hướng đi vì không có động cơ. Đại dương tĩnh lặng và Ba đã mất phương hướng.

Sau 1 tuần, con thuyền đã ra khỏi hải phận quốc tế và trôi dạt theo dòng nước. Tất cả những gì có thể nhìn thấy chỉ là đại dương và bầu trời. Trời nóng quá. Để giải nhiệt, Ba buộc một sợi dây quanh eo và nhảy xuống biển. Nó đã giúp một chút. Ba muốn đến Phi Luật Tân, vì nó gần hơn nhưng lại có những khu vực nguy hiểm nên Ba và Bác Ba cứ đi về hướng Bắc.

Một tuần nữa trôi qua. Không có mưa chút nào. Không có thức ăn, Ba và mọi người chỉ còn da bọc xương. Dưới ánh mặt trời, làn da của ai cũng đen đúa. Không ai còn sức lực. Ba ước gì Con có thể tưởng tượng được hoàn cảnh lúc đó. Vào ban đêm, chúng ta chỉ nhìn thấy những ngôi sao, và khi ngày đến, chỉ có biển, bầu trời, và cái nóng… cùng sự tuyệt vọng!

Con kêu Ba, Con muốn về nhà. Con liên tục nói: “Con muốn gặp ông bà Ngoại. Họ sẽ cho con ăn uống.” Con cứ đi tới mép thuyền, Ba không còn sức để giữ con lại nên đành phải trói con vào cột buồm. Con muốn nhảy xuống biển để về nhà. Ba nói với con: “Khi nào Con chết, Ba sẽ để con về nhà”, nghĩa là Ba sẽ ném con xuống biển. Con bảo Ba: “Ba ơi, con chết rồi. Hãy để con đi!” Tất nhiên là Ba không thể làm được!

Để cho Vân ăn, Ba và Mẹ pha một ít mật ong với nước biển vì Mẹ con không có sữa. Đôi khi, tất cả Ba và mọi người đều nghĩ rằng mình sẽ đánh chìm thuyền để tất cả mọi người đều chết cùng một lúc. Ba và Bác Ba không thể làm được!

Một ngày nọ, Bác Ba bắt được một con rùa biển. Ngư dân tin rằng nếu ăn phải loại rùa đó, ngư dân sẽ gặp xui xẻo, nhưng Bác Ba không quan tâm. Bác Ba nấu nó bằng nước biển và chia sẻ với mọi người. Bác Ba phải nấu nó cho đến khi nó thật mềm, vì răng của ai cũng lung lay vì suy dinh dưỡng (thực ra là không có dinh dưỡng.

Ơn trên

Khoảng một giờ sau bữa tiệc rùa, mưa bắt đầu trút xuống. Mọi người dùng bất cứ thứ gì để hứng mưa, từ chảo đến mũ. Mọi người đều khát nước lắm rồi. Vài giờ sau, một tàu đánh cá Đài Loan đã nhìn thấy con thuyền của chúng ta. Họ không nói được nhiều tiếng Anh và Ba cũng không nói được tiếng Đài Loan. Rất khó để giao tiếp.

Tuy nhiên, họ dừng lại, đưa lên tàu và cho mọi người thức ăn. Họ đã cố gắng sửa động cơ nhưng nó đã bị hỏng hoàn toàn. Ba đã cố gắng nói chuyện với họ và họ đã liên hệ với Chính phủ Đài Loan để hỏi họ phải làm gì. Ba không hiểu họ nói gì. Họ bảo Ba quay trở lại thuyền và cung cấp nhiên liệu, nước uống và thực phẩm cho thuyền. Họ bảo mọi người quay lại, ngoại trừ Ba. Họ muốn Ba ở lại trên tàu. Họ buộc một sợi dây vào thuyền và kéo nó. Nhưng Ba đã về lại thuyền của mình.

Hụt hẫng

Họ kéo con thuyền trở lại hải phận quốc tế, chặt dây rồi bỏ đi…Lúc đó trời đã tối. Thế là con thuyền lại chơi vơi giữa đại dương mênh mông. Một lần nữa, không có con tàu nào ghé qua và dừng lại. Lần này mọi người đã có thức ăn nên cảm thấy ổn hơn. Cảm ơn những Ngư phủ Đài Loan. Ngày tháng cứ trôi qua, chỉ biết ngắm nhìn bầu trời và đại dương, không biết phải làm gì nên Ba đã cầu nguyện rất nhiều.

Một cơn bão lớn, cơn bão đầu tiên trong mùa đã đến vào tuần thứ 4 lênh đên trên biển. Nhiều lần suýt đánh chìm thuyền. Mưa thật nhiều và sóng rất lớn. Ba và mọi người phải thức để tát nước ra khỏi thuyền. Bác Ba cho thuyền đi lùi, thả neo để thuyền chậm lại, nếu không sóng sẽ ập vào thuyền và đánh chìm con thuyền. Thuyền rất nhỏ nên khi lọt trong máng sóng, chúng ta có thể nhìn thấy sóng nằm trên đầu mình. Khi con thuyền ở trên đỉnh sóng nhìn xuống giống như nhìn từ tầng thứ 10 của một tòa lâu đài vậy. Ba luôn tự hỏi: “Chúng ta có cần phải trả những cái giá quá đắt nhu thế này cho sự Tự Do không? Tại sao chúng ta phải mạo hiểm mạng sống của mình như vậy?”.

Ánh sáng cuối chân trời

Cơn bão kéo dài khoảng một ngày một đêm. Chúng ta đã trải qua thời điểm khó khăn nhất trong cuộc đời. (Sau này, khi mọi người vào bờ, người dân địa phương nói với Ba rằng đó là cơn bão tồi tệ nhất trong năm). Ba nghĩ cơn bão đã giúp đẩy con thuyền tiến xa hơn về phía Bắc và gần bờ hơn. Một đêm nọ, Ba nhìn thấy ánh sáng rực rỡ ở một góc trời. Bác Ba cho con thuyền hướng về phía ánh sáng đó. Đến nửa đêm, Ba nhìn thấy ánh sáng rõ ràng hơn. Nó trông giống như một thị trấn, nhưng Ba không chắc lắm. Bác Ba cứ đi về phía ánh sáng cho đến sáng hôm sau. Đó là một giàn khoan dầu! Nó quá lớn. Cùng lúc đó, thuyền mình gặp một tàu đánh cá Trung Quốc. Họ đưa cho mọi người thêm đồ ăn và thuốc lá, đồng thời chỉ đường cho Ba (bằng ngôn ngữ ký hiệu) hướng đến Hồng Kông. Trong vòng 12 giờ là tới. Ồ! Ba và mọi người biết rằng đã gần đạt được tự do! Cảm ơn Ngư dân Trung Quốc!

Mọi người thay phiên nhau chèo thuyền. Ngày hôm sau ai cũng nhìn thấy những ngọn núi, rồi bờ biển. Nhưng không có người và không có nhà! Gần bờ hơn, gặp một tàu đánh cá Trung Quốc khác. Họ bảo Ba đừng vào đó! Sau đó, họ buộc dây vào con thuyền và bắt đầu kéo. Không ai biết mình sẽ đi đâu.

Hai giờ sau, Ba và mọi người bắt đầu nhìn thấy nhiều ngôi nhà hơn, nhiều người hơn, nhiều thuyền hơn và nhiều building lớn hơn. Thật là một cảm giác tuyệt vời! Mọi người vui mừng đến nỗi không từ ngữ nào có thể diễn tả được niềm hạnh phúc đó.

Quang cảnh thành phố trông giống như trong phim Tàu. Moi người đều nghĩ rằng con thuyền đã cập cảng Hồng Kông. Khi thuyền vào bờ, tàu đánh cá Hồng Kong ra đi, họ vẫy tay và mỉm cười. Ba và mọi người cũng đã làm điều tương tự, vẫy tay, nhưng không ai nói điều gì. Mọi người không biết nói tiếng Hoa nhưng trong lòng ai cũng tràn đầy cảm kích. Cảnh sát biển đã đến, các phóng viên tin tức cũng như những người làm truyền hình và đài phát than kéo đến đông nghẹt!

Ba phát hiện ra nơi này là Ma Cao, nơi con thuyền cập bến. Ba và mọi người được biết tàu cá Hong Kong không muốn con thuyền mình vào nơi đó vì phần đó thuộc về Trung Quốc! Quả là may mắn!

Vượt biên ngày 25/05/1978.
Đến Ma Cao ngày 01/07/1978.
35 ngày vượt biển!
Con và Vân phải nằm bệnh viện một tuần.

Và cuộc sống của gia đình mình được tái sinh ở một đất nước tự do!

Ước Nguyện Đầu Xuân (Hoàng Trang)

Vào những ngày Tết, giai điệu vui tươi cùng ca từ đậm chất xuân của bản ‘Ước nguyện đầu xuân’ lại rộn rã vang lên ở khắp mọi nơi. Thế nhưng, không ít người yêu nhạc vẫn chưa biết bài này nhạc sỹ Hoàng Trang sáng tác vào những năm 1967 – 1968, khi Miền Nam Việt Nam vẫn còn vào hồi chinh chiến.

Bản này được ca sỹ Giao Linh thu âm lần đầu tiên vào đĩa nhựa ‘Hái lộc đầu xuân’ do hãng đĩa Continental phát hành. Ngày ấy, Giao Linh hát chậm, vừa, da diết, đúng với tâm trạng của tác giả muốn gởi gắm.

Nếu để ý kỹ một chút, chúng ta sẽ nhận ra xuyên suốt nhạc phẩm là lời tâm sự của một cô thiếu nữ còn khá trẻ, ước chừng mười tám đôi mươi. Và cũng như bao thân phận khác thời binh đao khói lửa, nàng cũng hướng lòng về người yêu, một quân nhân đang đồn trú ở một tiền đồn xa xôi nào đó. Dưới đây là phần lời ca gốc mà Giao Linh đã chuyển tải trong bản thâu âm trước 1975:

Một rừng hoa mai nở
Một bầy chim én đưa tin
Chúa xuân giáng trần thật xinh
Năm rồi em trăng gầy
Năm này mười sáu tròn trăng
Đón xuân thấy lòng bâng khuâng
Vì em biết yêu rồi chăng?

Thật lòng yêu thương người
Người miền chinh chiến chưa nguôi
Đón xuân gió lộng rừng xuôi
Hương trầm đêm giao thừa
Hoa lộc khoe sắc mọi nơi
Đơm nụ xuân hồng đôi môi
Người tôi mến yêu đầy vơi

Tuy năm nay em lớn
Nhưng vẫn thích bao lì xì
Thích khoe áo đẹp mẹ cho
Thích nghe pháo nổ đây đó

Đêm xuân thiêng xin khấn
Cho đất nước em bình thường
Ước mơ giấc mộng uyên ương
Có đôi cánh thạnh chung hướng

Dù người sang hay nghèo
Đều mừng xuân ngát hương say
Ý mong phước lộc tròn tay
Ôm nàng xuân trong lòng
Cho dù minh biết hoài công
Thế nhưng vẫn mộng tương lai
Làm tin sống cho ngày mai

Vì nhiều lý do khác nhau, hầu hết các ca sỹ thời nay khi hát ‘Ước nguyện đầu xuân’ đều sửa lời làm mất đi tính “người lính, chiến tranh, chia cách” và hát nhanh hơn, rộn rã hơn, vui tươi hơn để theo kịp thời đại.

Đây là phần lời mà ngày nay người yêu nhạc hay nghe:

Một rừng hoa mai nở
Một bầy chim én đưa tin
Chúa xuân giáng trần thật xinh
Năm rồi em trăng gầy
Năm này em mới tròn trăng
Đón xuân thấy lòng bâng khuâng
Vì em biết yêu rồi chăng?

Thật lòng em yêu người
Một đời nhân nghĩa cưu mang
Ý anh ý đẹp trời ban
Hương trầm đêm giao thừa
Hoa lộc khoe sắc mọi nơi
Đơm nụ xuân hồng đôi môi
Tình xuân ngất ngây trần gian.

[ĐK:]
Tuy năm nay em lớn
Nhưng vẫn thích bao lì xì
Thích khoe áo đẹp mẹ cho
Thích đi hái lộc đây đó

Đêm xuân khuya em khấn
Cho đất nước ta mạnh giàu
Ước mơ giấc mộng uyên ương
Có đôi cánh đẹp tình thương.

Dù người sang hay nghèo
Đều mừng xuân ngát hương say
Ý mong phước lộc tràn tay
Ôm nàng xuân trong lòng
Môi hồng âu yếm nụ hôn
Đón xuân ước nguyện đêm nay
Đời ta có nhau ngày mai.

Và đây là tờ nhạc do nhóm “Trăm Hoa Miền Nam” phát hành đầu năm 1968.

Ước Nguyện Đầu Xuân (Hoàng Trang). Nguồn: AmNhacMienNam.blogspot.com

Trong những ngày giáp Tết, Dòng Nhạc Xưa mời quý vị yêu nhạc xa gần hãy nghe lại cả hai phiên bản “Ước nguyện đầu xuân” của cố nhạc sỹ Hoàng Trang để có những phút giây vui tươi hoặc lắng đọng, để chuẩn bị đón một mùa Xuân Giáp Thìn 2024 đầm ấm.