Nếu như trong ‘Tình lỡ’ (Thanh Bình) hay ‘Tình ca’ (Hoàng Việt) mà [dongnhacxua.com] đã giới thiệu trước đây đã gián tiếp nói đến sự chia cắt sau Hiệp định Genève thì trong ‘Câu hò bên cầu Hiền Lương’, nhạc sỹ Hoàng Hiệp đã đề cập cụ thể đến con sông Bến Hải và chiếc cầu Hiền Lương. Có thể nói nhạc phẩm sáng tác năm 1956 này là bản nhạc đầu tiên của tân nhạc Việt Nam viết đề đề tài “chia cắt hai miền – 1954”.
60 năm sau, tiếng súng đã chấm dứt gần 40 năm trên quê hương chúng ta, chiếc cầu chia cắt cũng đã nối liền hai bờ. [dongnhacxua.com] cầu mong hòa bình, ấm no và hạnh phúc cho nước Việt xinh tươi!
RƠI NƯỚC MẮT CÂU CHUYỆN ‘CÂU HÒ BÊN CẦU HIỀN LƯƠNG’
(Nguồn: VTC.vn)
(VTC News) – Ca khúc nổi tiếng rất xúc động Câu hò bên bờ Hiền Lương được chính nhạc sĩ Hoàng Hiệp tiết lộ cũng xúc động không kém khiến người đọc có thể rơi nước mắt.
Nhạc sĩ Hoàng Hiệp qua đời hôm qua (9/1) đã để lại thương tiếc trong lòng nghệ sĩ và người yêu nhạc nhưng những tác phẩm của ông còn sống mãi theo thời gian.
Một trong những ca khúc nổi tiếng, xúc động nhất của nhạc sĩ Hoàng Hiệp là Câu hò bên bờ Hiền Lương (lời Hoàng Hiệp và Đằng Giao) nhưng ít ai biết hết về hoàn cảnh sáng tác của nó cũng rất xúc động.
VTC News trích đăng lại bài viết về hoàn cảnh sáng tác ca khúc Câu hò bên bờ Hiền Lương do chính nhạc sĩ viết năm 1987, được in trong cuốn Nhạc và Đời (Lê Giang – Lưu Nhất Vũ chủ biên, NXB Tổng hợp Hậu Giang, 1989):
Đó là vào những ngày cuối năm 1956.
Ngồi trên xe đò từ Hà Nội và Vĩnh Linh, tôi lặng thinh, day dứt vì nỗi nhớ quê nhà.
Nhìn thời cuộc lúc này, tôi hiểu rằng sẽ không có hiệp thương tổng tuyển cử gì hết. Nhưng phải làm thế nào đây thì tôi không biết.
Tôi hồi tưởng lại quang cảnh ngày các má, các chị, các anh và các em thiếu nhi tiễn đưa chúng tôi xuống ghe để ra vàm sông Đốc, lên tàu tập kết mà không cầm được nước mắt.
Tôi ra đi cũng không gặp lại được ba má và các em tôi sau gần 9 năm xa cách. Gia đình tôi hiện giờ đang ở đâu?
Những ngày đầu ở phía Bắc bờ Bến Hải, tôi sống trong một đồn biên phòng nằm cách cầu Hiền Lương chừng trăm thước.
Ban ngày, tôi đội mưa đi dọc theo bờ sông, đôi mắt đăm đăm nhìn sang bờ Nam. Tôi bắt gặp nhiều em, nhiều chị từ bên ấy, hình như cũng nhìn thấy tôi nên giả đò ra song rửa chân tay để được nhìn lại tôi. Chắc họ muốn nhận coi tôi có phải là người thân hay người quen cùng làng đã đi tập kết hay không.
Phần tôi, tôi đâu có hi vọng gặp được người quen ở chốn này. Bởi quê tôi ở tận cùng phía Nam đất nước.
Xóm làng, chợ búa ở đây cũng không giống như ở quê tôi. Mặc dầu vậy, tôi vẫn cố nhìn, cố nhận dạng những hình vóc, những gương mặt mà tôi cảm thấy rất gần gũi, yêu thương. Và trong lòng thầm nhủ “biết đâu đấy!”.
Ban đêm, tôi hỏi chuyện các chiến sĩ biên phòng. Những người này cũng chỉ cho tôi biết những tin tức mà tôi đã nghe qua. Đồn này quá ít người. Họ lại thay phiên nhau đi làm nhiệm vụ luôn. Họ còn là những người rất ít lời. Hết nằm xuống, tôi lại ngồi dậy. Bởi giấc ngủ không chịu đến với tôi.
Tôi muốn viết một cái gì đó nhưng tâm trạng ngồn ngang nên cũng không viết được. Nhiều ý nghĩ cùng đến một lúc, không biết chọn cái nào và bắt đầu từ đâu.
Đã thế, lại còn tiếng nhạc và những lời xuyên tạc sự thật từ các loa phóng thanh bờ Nam dội sang. Nó tra tấn tôi không ít qua các đêm ở đây.
Một lần nữa, tôi lại bước ra hiên đồn, nhìn về phía cầu Hiền Lương, chiếc cầu ban chiều tôi đã đặt chân lên đó. Tuy nhiên, tôi chỉ được phép đi ở nửa cầu phía Bắc, vì nửa kia là thuộc về miền Nam rồi. Thuộc về cái chính quyền đang quyết tâm và ra sức chia đôi đất nước.
Cây cầu lúc này đang bị màn mưa che phủ. Nó như ẩn như hiện, như thực như hư. Dầu vậy, nó vẫn là vật biểu hiện cụ thể nhất của sự chia cắt.
Từ giã đồn biên phòng, tôi đi ra cửa Tùng và đến sống với những người chài lưới ở một tập đoàn đánh cá.
Khác với các chiến sĩ biên phòng, những người dân miền biển đều ăn to nói lớn. Họ đối với chúng tôi cởi mở hơn. Họ cũng thích bắt chuyện với tôi vì tôi là người từ xa đến, nhất là từ thủ đô Hà Nội.
Tuy vậy, có một anh trong số họ khiến tôi có phần e dè và đặc biệt để ý. Bởi anh rất ít nói. Anh cũng không hay cười, kể cả khi mọi người ngồi quanh chén rượu, kể cho nhau nghe những câu chuyện vui nhộn. Anh cũng là một xã viên của tập đoàn. Ngoài nhiệm vụ ra khơi đánh bắt, anh còn được giao một công việc nữa. (Được gia hay tự xung phong nhận lãnh tôi cũng không rõ). Đó là công việc của người gác đèn ở Cửa Tùng.
Một buổi chiều, thấy anh sửa soạn trèo lên nơi đặt đèn, tôi xin anh cho tôi theo lên và đã được anh đồng ý.
Và cũng như mọi khi, kể từ lúc chúng tôi trèo lên thang cho đến khi anh thắp sáng ngọn đèn, anh cũng không mở miệng nói với tôi một câu nào. Tôi cũng không gợi chuyện để nói bởi vẻ mặt của anh lúc này càng biểu lộ sự đau khổ hơn lúc nào hết. Tôi còn cảm thấy như đôi lúc anh quên rằng có tôi đang ở bên cạnh anh.
Buổi chiều, ở trên cao nên càng vắng lặng. Chúng tôi nhìn ra biển khơi sóng vỗ, nhìn đàn chim hải âu đang bay, nhìn những cánh buồm đang từ từ trôi dạt vào cửa sông. Bỗng nhiên anh nói:
– Đồng chí có biết không? Nhà tôi ở ngay chỗ chòm dương có những cây cao nhứt đó… Tôi cũng như đồng chí, tập kết ra Bắc từ hơn hai năm nay… Tôi sang đây để lại vợ con bên ấy… Vì vậy, tôi lên đây không phải để làm nhiệm vụ thôi mà còn để nhìn về quê tôi. Vài lần, tôi đã rông thấy ai như vợ con tôi đang từ trong nhà ra bãi để nhận cá mang ra chợ bán. Tôi muốn kêu to lên, nhưng kêu sao cho tới…
Một lần, vừa mới tang tảng sáng, tôi đang đứng ở đây thì nghe tiếng súng nổ bên ấy. Rồi thì tôi thấy khói bốc lên ở đúng ngay xóm tôi. Đồng chí thử tưởng tượng coi, ruột gan tôi lúc đó như thế nào! Tôi đã tìm đủ mọi cách để biết được nhà cửa, vợ con tôi bây giờ ra sao.
Nhưng không có cách gì hết. Tôi muốn lén đi về bên ấy một lần. Chỉ một lần thôi rồi ra sao thì ra… Đồng chí có biết bao giờ thì mình được về bên ấy hay không? Trước đây tôi là du kích. Bây giờ tôi chỉ muốn cầm súng. Thà chết còn hơn sống hoài trong cảnh thế này…
Một lúc sau, chúng tôi lẳng lặng quay về tập đoàn.
Và bài hát Câu hò bên bờ Hiền Lương của tôi được bắt đầu ngay từ cái đêm hôm đó.
TP Hồ Chí Minh, 18/4/1987
Nhạc sĩ Hoàng Hiệp
[footer]