Cô bắc kỳ nho nhỏ (Phạm Duy – Nguyễn Tất Nhiên)

Trong một bài viết về nhạc phẩm ‘Thà Như Giọt Mưa’ của Phạm Duy phổ thơ Nguyễn Tất Nhiên, [dongnhacxua.com] có đề cập đến một nguyên mẫu của ‘Duyên’ ngoài đời là cô Bùi Thị Duyên, cựu học sinh Ngô Quyền, Biên Hòa ngày xưa. Hôm nay chúng tôi lại có cái ‘duyên’ được thêm thông tin về năm tháng Nguyễn Tất Nhiên còn đi học và nhất là biết được ai là “Cô bắc kỳ nho nhỏ”, một sáng tác khác mà Phạm Duy cũng phổ thơ của Nguyễn Tất Nhiên.

 

 

Cô bắc kỳ nho nhỏ. Phạm Duy - Nguyễn Tất Nhiên. Ảnh: QuanNhacVang.com
Cô bắc kỳ nho nhỏ. Phạm Duy – Nguyễn Tất Nhiên. Ảnh: QuanNhacVang.com

co-bac-ky-nho-nho--2--pham-duy--nguyen-tat-nhien--quannhacvang--dongnhacxua.com

MỘT CÁI NHÌN KHÁM PHÁ MỚI VỀ NGUYỄN TẤT NHIÊN
(Nguồn: tác giả Người Xứ Bưởi đăng trên Ngo-Quyen.org)

Thi sỹ Nguyễn Tất Nhiên. Ảnh: ngo-quyen.org
Thi sỹ Nguyễn Tất Nhiên. Ảnh: ngo-quyen.org

 

Biên Hòa có gì ”đặc biệt” không … ?

Nhớ lại mùa hè cách nay đúng 36 năm, giới trẻ sinh viên học sinh VN có làm Đại Hội Thể Thao Âu Châu ngay tại thành phố Stuttgart / xứ Đức. Đêm về khuya, một nhóm nhỏ gốc Hướng Đạo có sáng kiến làm lửa trại “bỏ túi” để sinh hoạt làm quen với nhau. Tới màn tự giới thiệu, người viết vừa mới nói là dân Biên Hòa, thế là bị cắt lời ngay bằng lao nhao những lời “hỏi thăm“:

Học trường Ngô Quyền phải không ?

Bưởi Biên Hòa ngon lắm đó!

Nhà Thương Điên cũng “hết xẩy” luôn!

Một cô khá “mi nhon” liền tự nhiên đứng lên hát một đoạn bản nhạc Thà Như Giọt Mưa và sau đó “lên mặt” hỏi trỏng có quen biết Nguyễn Tất Nhiên không và “dung nhan” của Cô Bắc kỳ nho nhỏ tên Duyên ra sao? Lúc đó trước mặt bạn bè làm sao tôi dám “can đảm tiết lộ” đã học cùng khóa 8 với Nguyễn Tất Nhiên tại trường Ngô Quyền, học cùng thời bậc tiểu học với Duyên và nhứt là trước năm 1975, gia đình ba má tôi & ba má Duyên là láng giềng ở cách nhau một căn nhà trong một “xóm Bắc kỳ nho nhỏ” tại cuối đường dốc tòa án Lê Văn Duyệt (sau đổi là Bùi Văn Hòa). Tại trong bụng sợ mang tiếng “thấy sang bắt quàng làm họ” nên đành nín khe chịu thua luôn.

Câu chuyện tình cờ này cho thấy thơ Nguyễn Tất Nhiên được giới trẻ lúc đó biết rất nhiều và đôi khi đã biến thành biểu tượng đặc biệt cho tỉnh Biên Hòa & trường Ngô Quyền. Bởi nổi tiếng như vậy nên đã có nhiều huyền thoại không phù hợp sự thực được đưa ra. Trong văn học tại các quốc gia tiền tiến Tây Phương thì họ giải quyết rốt ráo không chấp nhận những chi tiết huyền thoại sai sự thực trong tiểu sử tác giả liên hệ. Cho nên hồi năm 2007, người viết có đề nghị trang web trường Ngô Quyền mở rộng & thêm mục Thư Quán Nguyễn Tất Nhiên để lưu trữ toàn bộ di sản văn học liên hệ và làm sáng tỏ những chi tiết không đúng sự thực có liên quan đến nhà thơ nổi tiếng này. Từ đó trang web trường Ngô Quyền có thêm mục Thư Quán Nguyễn Tất Nhiên và được phụ trách bởi nhà thơ Nguyễn Thị Minh Thủy (cũng là người bạn đời hôn phối duy nhứt của Nguyễn Tất Nhiên). Nhờ vậy, trong đó đã xuất phát những cải chính cấp thời bảo vệ hữu hiệu danh dự cho Nguyễn Tất Nhiên, khi nhà thơ Du Tư Lê vào năm 2010 đã viết báo nói xấu & mạo nhận là người nghĩ ra giùm bút hiệu cho Nguyễn Tất Nhiên.

Trong khuôn khổ giới hạn, bài viết ở đây bàn đến vài điểm trong Một cái nhìn khám phá  mới về Nguyễn Tất Nhiên.

1) Ai mới chính đích thực là “Cô Bắc kỳ nho nhỏ” của Nguyễn Tất Nhiên?

Xứ bưởi Biên Hòa nổi tiếng là cái nôi thơ văn miền Nam. Được biết nhiều nhứt trong giới làm thơ tại đây từ trước đến nay chính là người học trò Nguyễn Tất Nhiên với “Cô Bắc kỳ nho nhỏ“:

Đôi mắt tròn, đen, như búp bế

Cô đã nhìn anh rất… Bắc kỳ

Anh vái trời cho cô dễ dạy

Để anh đừng uổng mớ tình si

 …..

Anh chắc rằng cô sinh trong Nam

Cảnh tượng di cư chắc lạ lùng

 

Thuở còn học ở Ngô Quyền, đám học trò chúng tôi may mắn được nhiều Thầy Cô thiệt giỏi như Thầy Đoàn Viết Biên, Cô Đặng Thị Trí, Cô Vương Chân Phương, Cô Đinh Thị Hòa…  “truyền nghề” cho môn Quốc Văn. Trong đó có phương pháp tổng hợp để tìm thấy những sự thực liên quan đến tác giả qua:

a) phân tích kỹ mọi dữ kiện chứa đựng trong các tác phẩm.

b) sưu tầm tin tức qua những cá nhân thân cận & quen biết với tác giả.

c) nghiên cứu về hoàn cảnh của tác giả, sẽ thấy tác phẩm ra đời với hậu ý gì?

Trong lãnh vực nghiên cứu văn học, đôi khi một vài dữ kiện tuy nhỏ nhoi trong tác phẩm lại dẫn đến khám phá sự thực bất ngờ. Điển hình là trong dự án chuyển dịch bộ Luật Hồng Đức (tên chính thức là  Quốc Triều Hình Luật) của Đại học Harvard vào năm 1984 quy tụ nhiều học giả Việt Mỹ đã tình cờ khám phá ra tác giả đích thực soạn ra bộ luật nổi tiếng này chính là thiên tài Nguyễn Trãi (cũng là tác giả của Bình Ngô Đại Cáo). Trong đó, học giả Nguyễn Ngọc Huy đã có sáng kiến nghiên cứu kỹ vấn đề kỵ húy (kiêng kỵ tên húy của vua) để phát giác ra bản văn bộ Luật Hồng Đức chắc chắn được soạn trước thời vua Lê Thánh Tôn (Hồng Đức) lúc mà thiên tài Nguyễn Trãi còn sống chịu trách nhiệm điều hành.

Áp dụng vào trường hợp Nguyễn Tất Nhiên, chúng tôi đã phát hiện thấy là phần lớn các bài viết và dư luận đã… lầm và sai, khi cho rằng nhân vật “Cô Bắc kỳ nho nhỏ ” chính là cô bạn học cùng lớp tên Duyên (Bùi Thị Duyên). Bởi lẽ, họ không nắm vững những chi tiết liên hệ:

a) Nguyễn Hoàng Hải (tên thật của nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên) và Duyên học cùng lớp cùng sinh năm Nhâm Thìn 1952, mà cuộc di cư xảy vào năm 1954. Như vậy quá rõ ràng Nguyễn Tất Nhiên muốn ám chỉ vào một người con gái khác trẻ tuổi hơn nhiều (sinh sau năm di cư 1954!) và khi muốn bắt chuyện làm quen vào năm 1973 bèn đong đưa với câu “Anh chắc rằng cô sinh trong Nam. Cảnh tượng di cư chắc lạ lùng“. Điều này không gì lạ, vì thi sĩ vốn nòi đa tình, nên trong tác phẩm Nguyễn Tất Nhiên xuất hiện nhiều bóng hồng khác nữa chớ không phải chỉ có “một người mang tên Duyên“.

b) Trong bài phỏng vấn tuần báo Tuổi Ngọc số 141 vào ngày 5.8.1974, Nguyễn Tất Nhiên đã trả lời gián tiếp xác nhận chuyện này:

Tuổi Ngọc: Cuối cùng, Nguyễn Tất Nhiên, bạn còn muốn nói thêm gì chăng?

Nguyễn Tất Nhiên: Có lẽ, nên thôi. Bởi tôi sắp sửa đề cập tới nàng con gái khác, trong bài “Hai năm tình lận đận” . Nàng con gái khác nữa, trong bài “Cô Bắc kỳ nho nhỏ”.

c) Nguyễn Tất Nhiên đã tả điểm đặc biệt về Cô Bắc kỳ nho nhỏ như sau: 

Cô Bắc kỳ nho nhỏ

tóc “demi-garcon”

cười ngây thơ hết nụ

…..

mắt như trời bao dung

Kiểu tóc “demi-garcon” đặc biệt này không thể tìm thấy ở hình ảnh thuở xưa ở các nhân vật nữ mà Nguyễn Tất Nhiên từng theo đuổi làm thơ gửi tặng như chs-NQ Bùi Thị Duyên (tóc xõa đến bờ vai), nhà thơ Nguyễn Thị Minh Thủy (tóc thắt bím)… (xem hình ảnh phía dưới

Tố Hoa & Bùi Thị Duyên. Ảnh: ngo-quyen.org
Tố Hoa & Bùi Thị Duyên. Ảnh: ngo-quyen.org

 

Ngọc Dung và Minh Thủy (1972). Ảnh: ngo-quyen.org
Ngọc Dung và Minh Thủy (1972). Ảnh: ngo-quyen.org

Phân tích trên đã được đăng tải trên Tuyển Tập Ngô Quyền năm 2006 và lúc đó thực sự chúng tôi không biết rõ tên tuổi đích thực của Cô Bắc kỳ nho nhỏ, bởi lẽ chúng tôi tiếp tục qua Âu Châu du học từ năm 1971, nên không rõ nhiều về “diễn tiến” tại Biên Hòa.

Dĩ nhiên đã gợi trong lòng “tò mò” vô cùng khi thấy Nguyễn Tất Nhiên vào năm 1972 làm bài thơ Duyên Của Tình Ta Con Gái Bắc với những lời lẽ “nặng nề” chê gái Bắc “nhớ duyên dáng ngây thơ… mà xảo quyệt” . Rồi thật bất ngờ chỉ một năm sau 1973, Nguyễn Tất Nhiên lại gặp một nàng con gái bắc khác nhỏ tuổi hơn nhiều, để sáng tác được bài thơ độc đáo Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ . Vậy, nhân vật nữ “đặc biệt” này là ai đã có sức mạnh ghê gớm khiến Nguyễn Tất Nhiên chạy theo “mê tình” đến nổi gạt bỏ mọi thành kiến xấu “gái bắc” trước đó một năm.

Để giải đáp được ẩn số này, chúng tôi đành sưu tầm tin tức qua những cá nhân thân cận & quen biết với tác giả. Trong đó có nhà thơ Nguyễn Thị Minh Thủy, nhà thơ Tưởng Dung (bạn học thân thiết nhứt của Minh Thủy), Cô giáo Ma Thị Ngọc Huệ và một số bạn bè thân ở trong & ngoài nước. Rất ngạc nhiên là phần lớn họ đều biết rõ chuyện nội bộ này và xác nhận cho biết Cô Bắc kỳ nho nhỏ với tóc “demi-garcon” chính là một nữ sinh trường Ngô Quyền tên là Hoàng Thị Kim Oanh. Nên nhớ Nguyễn Tất Nhiên cũng từng sáng tác một bài thơ có tựa đề “Oanh“, mà nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc thành bài Hãy Yêu Chàng:

 Oanh

 Hãy yêu chàng, yêu chàng như yêu dòng sông

Ngậm ánh trăng non bàng bạc đêm rằm

…..

Chơi giỡn tung tăng hai vạt áo dài

Gió đưa mây về, trời mưa, bong bóng vỡ

Từ Biên Hòa, bạn bè lại cho biết rõ thêm chi tiết về chs-NQ Hoàng Thị Kim Oanh, sinh năm 1955 (học khóa 12 trường Ngô Quyền / Biên Hòa, sống khép kín, hiền lành, ít giao tiếp và rất xinh), có người chị tên là Hoàng Thị Thúy Liễu (Ngô Quyền khóa 8) và người chị khác nổi tiếng hơn tên là Hoàng Thị Lý (Ngô Quyền khóa 5, còn được gọi là Chị Lý Ca Dao vì có quán cà phê Ca Dao tại Ngã Ba Vườn Mít và là nơi tụ tập giới học sinh NQ trong đó có cả Nguyễn Tất Nhiên). Hiện nay, họ vẫn còn cư ngụ ở địa chỉ cũ tại Biên Hòa. Kim Oanh nhỏ hơn Nguyễn Tất Nhiên đến 3 tuổi, chính vì thế thân mẫu của nhà thơ mới nhận xét là “còn nhỏ dại“.  Sự thực này mới giải thích thỏa đáng toàn bộ bài thơ tâm sự sau đây của Nguyễn Tất Nhiên:

 Chỗ tôi

 tôi có chỉ cho gia đình

người tôi yêu

là một nàng con gái bắc

mẹ tôi hai lần nhìn

dáng em đi

và nói nó còn nhỏ dại

không hiểu nó thương mày chỗ nào

tôi trả lời chỗ con làm thi sĩ

tuy nhiên tôi vừa đau nhói trái tim

vì hiểu rằng

muôn đời

em vẫn ngó tôi nửa mắt

có gì đâu

thiên hạ lâu nay cứ nhạo báng tôi khùng!

Có lẽ đây là bài thơ “duy nhứt” của Nguyễn Tất Nhiên đã “lột trần” mặc cảm tâm lý: rất muốn “yêu” con gái Bắc dù trong lòng biết rõ chỉ “đơn phương” mà thôi và chỉ được họ “ngó nửa con mắt“. Kể cả Cô Bắc kỳ nho nhỏ mang tên Kim Oanh!.

2) Nguyễn Tất Nhiên có thực sự bị bịnh điên hay không ?

Một số dư luận cho rằng Nguyễn Tất Nhiên là một nhà thơ điên.

a) Về phía Nhạc sĩ Phạm Duy có cho biết:

“Đi qua đời tôi có khá nhiều thi nhân thuộc nhiều thế hệ, đa số đều như tôi, đều khá hồn nhiên, nghĩa là có tí máu điên. Nhưng trong làng thơ Việt Nam, có ba nhà thơ hồn nhiên nhất, đó là Nguyễn Ngu Ý, Bùi Giáng, và Nguyễn Tất Nhiên… cả  ba vị đều đã  từng là thượng khách của Dưỡng trí Viện Biên Hòa, nơi tôi đã có lần đến thăm một trong ba vị đó..”

b) Còn về phía Giáo sư Nguyễn văn Lục trong bài viết Hãy Để Thi Ca Và Âm Nhạc Cùng Cất Cánh Bay Lên đưa ra nhận xét :

“Số phận dành cho thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên cũng là số phận dành cho nhiều nhà thơ nổi tiếng khác. Hình như bệnh tật đi đôi với tài năng, ngay cả trường hợp đối với những người mất trí. Theo những thí nghiệm bệnh lý học, người bệnh trí nhìn vũ trụ như tan vỡ và bị tán vụn. Chính vì thân thể của họ không còn là một thân thể tri giác bình thường.”

Trên thực tế là Nguyễn Ngu Ý, Bùi Giáng có điều trị… thiệt ở nhà thương điên Biên Hòa. Lời thơ của Bùi Giáng quả là… không bình thường. Còn Nguyễn Tất Nhiên thì hoàn toàn khác: chưa bao giờ bị điều trị ở Dưỡng Trí Viện Biên Hòa. Nhiều người ở Biên Hòa (trong đó có nhà thơ Tưởng Dung được biết trực tiếp) hiểu rõ vì muốn được hoãn dịch, Nguyễn Tất Nhiên phải đóng kịch… giả điên tại Trung Tâm 3 Quang Trung. Trong một truyện ngắn, Nguyễn Tất Nhiên tiết lộ về lý do hoãn dịch là sau đó có được giấy chứng nhận của bác sĩ về bịnh “tâm thần” để khỏi đi lính. Được biết, mánh lới hoãn dịch này đã được dùng tới khá nhiều trong thời kỳ chiến tranh khốc liệt lúc đó. Khách quan mà nói Nguyễn Tất Nhiên không bị bịnh điên, mà trái lại đã tỏ ra rất tỉnh táo & khôn ngoan dám hăm dọa kiện và lấy được tiền bồi thường trong vụ án tranh chấp bản quyền có liên quan đến nhạc sĩ Phạm Duy. Những người điên thật như Bùi Giáng, Nguyễn Ngu Ý… làm gì có cái khôn ngoan đó để kiện lấy được tiền bản quyền.

Chi tiết do Phạm Duy đưa ra hoàn toàn phóng đại, sai và có thể gây lầm lẫn tai hại lớn cho những nhận định văn học sau này về Nguyễn Tất Nhiên. Sự thực những dòng thơ tình học trò độc đáo của Nguyễn Tất Nhiên không “có tí máu điên ” nào cả và chính như vậy mới xứng đáng được ca ngợi & quý mến của biết bao nhiêu người hâm mộ.

Nhưng chắc chắn Nguyễn Tất Nhiên có máu “lập dị“, đôi khi cũng hơi… “tửng tửng” khác thường. Cho nên mới bị bạn bè chọc ghẹo với biệt hiệu là “ngáo” là “khùng“. Bởi vậy, ngay trong giờ Việt Văn của Cô Vương Chân Phương tại trường Ngô Quyền, Nguyễn Tất Nhiên mới 15 tuổi đã dám phê bình… chê thơ Nguyễn Du (tâm lý ngựa non háo đá!). Nhưng xét cho cùng, nếu phải làm loại thơ tình học trò chắc gì thi hào Nguyễn Du thắng nổi Nguyễn Tất Nhiên, bởi lẽ Nguyễn Tất Nhiên có đặc điểm nổi bật “viết dễ dàng giống như nói chuyện “.

3) Ai đã tạo ra 2 huyền thoại kể trên?

Thông thường huyền thoại được cố ý tạo dựng ra với chủ đích đằng sau. Xét kỹ ra cả hai huyền thoại kể trên được nhạc sĩ Phạm Duy chủ động qua những tiết lộ từ chính bản thân như sau:

“Saigon 1972. Ðây là lúc những khổ đau của Tết Mậu Thân chưa kịp phai mờ trong đời sống của mọi người thì xẩy ra những nhức nhối của mùa hè đỏ lửa… Tôi hết chạy trốn vào đạo ca thì lại nhào ra với chiến ca, hết hạ mình xuống với vỉa hè ca, tục ca thì lại vươn lên với nữ ca, bé ca, bình ca… Tôi thèm thuồng được soạn tình ca, nhưng phải là tình ca không rầu rĩ cơ… Thế rồi tôi gặp Nguyễn Tất Nhiên. Trong bầu không khí thơ ở miền Nam hơi nặng nề vào lúc đó, đầy rẫy những bài thơ chủ đề về chiến tranh, hòa bình… thì thơ của chàng thư sinh mới 17 tuổi này là thơ phi chính trị. Thơ rất hồn nhiên, rất ngộ nghĩnh, theo tôi, nếu đem phổ nhạc thì sẽ cũng sẽ rất hợp với giọng hát trẻ trung (Duy Quang) trong ban nhạc gia đình là ban THE DREAMERS mà tôi đang cần ”lăng xê ”. Sau khi tôi phổ bài Thà Như Giọt Mưa Rớt Trên Tượng Ðá, Nguyễn Tất Nhiên cung cấp cho tôi thêm nhiều bài thơ để tôi biến thành những ca khúc trẻ trung của thời đại như Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ, Em Hiền Như Ma Soeur, Anh Vái Trời hay là Anh Nam Kỳ Dễ Thương, Hãy Yêu Chàng, Hai Năm Tình Lận Ðận… Những tên bài hát phần nhiều do tôi đặt ra…”

Những chi tiết trên cho thấy nhạc sĩ Phạm Duy lúc đó rõ ràng đã bị kẹt đề tài sáng tác nên mới tìm kiếm đến thơ Nguyễn Tất Nhiên đang trên đà nổi tiếng qua 2 bài thơ được nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang đầu tiên phổ nhạc. Đó là bản Thiên Thu và bản Vì Tôi Là Linh Mục. Nhạc sĩ Phạm Duy “phù thủy” hơn nên đã cố tình sửa đổi thêm vào để quảng cáo thành công lớn về thương mại. Điển hình nhứt so sánh trong bài thơ Khúc Tình Buồn không hề có nhân vật nữ tên Duyên, nhưng trong bài hát phổ nhạc thì được Phạm Duy đặc biệt thêm vào. Nhứt là bi thảm hóa qua 2 câu hát cuối: “Khiến người trăm năm đau khổ ăn năn. Khiến người tên DUYÊN đau khổ muôn niên“.

Tương tự trong mục tiêu đó, Phạm Duy đã viết tung tin phóng đại cho rằng Nguyễn Tất Nhiên có nhiều máu điên nhất và cùng với Nguyễn Ngu Ý, Bùi Giáng điều trị tại Nhà Thương Điên Biên Hòa để tạo một huyền thoại bi thảm khác thường… mà sự thực chuyện đó không hề bao giờ có.

4) Ai đã khám phá ra tài năng và tạo cơ hội cho Nguyễn Tất Nhiên nổi tiếng?

Dư luận thường cho rằng chính Phạm Duy đã khám phá ra tài năng và chất thơ “rất hồn nhiên, rất ngộ nghĩnh” của Nguyễn Tất Nhiên rồi mới quyết định phổ nhạc. Nhưng trên thực tế, Nguyễn Tất Nhiên – qua lời thuật lại của nhà thơ Nguyễn Thị Minh Thủy –  đã liệt kê thứ tự các bài thơ được phổ nhạc như sau:

– Thiên thu (Nguyễn Đức Quang)

– Vì tôi là linh mục (Nguyễn Đức Quang)

– Thà Như Giọt Mưa (Phạm Duy)

– Hãy yêu chàng (Phạm Duy)

– Em hiền như ma soeur (Phạm Duy)

– Hai năm tình lận đận (Phạm Duy)

– Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ (Phạm Duy)

Bài hát Thiên Thu được phổ biến trên internet có đề là năm 1970 phát hành tại Sài Gòn. Điều này cho thấy nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang đã khám phá thấy ngay tài năng làm thơ của Nguyễn Tất Nhiên qua tập thơ Thiên Tai (1970) và chọn bài thơ “Thiên Thu” nằm ở trang cuối cùng trong tập thơ đó để phổ nhạc. Nhà thơ Tưởng Dung trong bài viết “Sao thiên thu không là…” cũng có cùng nhận xét về bài thơ đó: “rất thích ngay lần đầu đọc thơ anh, bấy giờ sao mà thấm thía“.  Kế đến, nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang phổ nhạc bài Vì Tôi Là Linh Mục, mà chính Nguyễn Tất Nhiên xem là bài thơ ưng ý nhứt. Chính những dòng thơ được phổ nhạc đầu tiên này đã dễ lan truyền trong giới hâm mộ thơ nhạc và khiến các nhạc sĩ nổi tiếng nhứt thời đó như Phạm Duy, Anh Bằng… phải tò mò chú ý và đến nổi “động lòng” đua nhau tiếp tay phổ nhạc các bài tình ca khác dễ “ăn khách” hơn.

Như vậy, khách quan mà nói trong thời gian ”còn lận đận” chưa ai biết đến, Nguyễn Tất Nhiên gặp được một tri kỹ khám phá & tận tình phổ nhạc mà không có hậu ý thương mại nào. Đó là nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang (1944 – 2010), một nhân tài VN sống phục vụ lý tưởng Hướng Đạo cho đến tận cuối đời. Còn về phía nhạc sĩ Phạm Duy mãi đến 2 năm sau mới nhìn thấy chân tài của Nguyễn Tất Nhiên và “phải” phổ nhạc những vần thơ đó chỉ vì mục đích tư lợi như từng thố lộ ở phần  trên. Qua đó cũng bộc lộ rõ bản chất ích kỷ suốt đời sống bất chấp đạo đức & dư luận của Phạm Duy, mà chúng ta ai cũng đã từng chứng kiến trong quá khứ.

Ngẫm nghĩ lại, Chúa Jesus há chẳng từng nói “Của Ceasar hãy trả lại cho Ceasar” với hàm ý rằng không ai có thể che lấp mãi về sự thực, rồi thì cũng có lúc sự thực sẽ lộ dạng. Cho nên hãy cùng nhau góp phần nhanh chóng trả lại Sự Thực cho Nguyễn Tất Nhiên để giúp linh hồn của nhà thơ yểu mạng này được cứu rỗi & mãn nguyện bên kia thế giới.

5 ) Tại sao thơ của Nguyễn Tất Nhiên đã lôi cuốn được tuổi trẻ?

Thơ của Nguyễn Tất Nhiên lôi cuốn tuổi trẻ… mới lớn vì thể hiện tâm tình và vần điệu rất học trò. Những dòng thơ quá si tình đánh đúng vào “tim đen” của đại đa số đã từng một thời đơn phương ôm ấp một hình ảnh vượt quá tầm tay và đến nỗi:

Thà như giọt mưa

Khô trên tượng đá

Có còn hơn không

Thơ  Nguyễn Tất Nhiên thể hiện rất… nhân bản. Lúc mê thích thì vội vã ca tụng, để rồi lúc tỉnh mộng “uổng mớ tình si” thấy sự thực vào năm 1972 thì đâm ra “bôi lọ”:

Em nhớ giữ tính tình con gái Bắc

Nhớ điêu ngoa nhưng giả bộ ngoan hiền

Nhớ dịu dàng nhưng thâm ý khoe khoang

Nhớ duyên dáng ngây thơ… mà xảo quyệt

Nhưng chỉ thời gian ngắn sau đó… hối hận sáng tác bài thơ “Tạ lỗi cùng người ” thú nhận “lỗi lầm” của mình:

Năm năm trời … có một người tên Duyên

Ta ca tụng rồi chính ta bôi nhọ

Tình ta đẹp nhưng tính ta còn nít nhỏ

Nên lỗi lầm đã đục màu sông

Đốt… đuốc đi tìm trong làng văn thơ VN và cả thế giới nữa, chắc khó tìm thấy được một thi sĩ quá… thành thực dám “bôi lọ” thần tượng, dám công khai hối hận và dám “tạ lỗi” như cỡ Nguyễn Tất Nhiên. Đó là điểm dễ thương đặc biệt nhất của nhà thơ yểu mệnh này. Nhìn lại lịch sử nhân loại, đôi khi cho thấy chính hoàn cảnh cực đoan xảy cho bản thân là nguồn cảm hứng thúc đẩy cho nhiều người bất ngờ để lại cho hậu thế những sáng tác và công trình bất hủ. Giả sử, nếu Tư Mã Thiên không bị “nhục hình” (đến nỗi uất ức đóng cửa để chuyên tâm viết sách!) thì chắc gì tác phẩm Sử Ký lừng danh đã ra đời được. Hoặc nhạc sĩ Đặng Thế Phong bị bịnh nan y hết thuốc chữa, thấy tử thần lởn vởn bên cạnh mới gảy ra được điệu nhạc não nùng “Con Thuyền Không Bến“. Cũng như đệ nhứt thi hào Nguyễn Du được nguồn thi hứng ghê lắm khi tìm ra tri âm qua cuộc đời người kỹ nữ Thúy Kiều để sáng tác ra tác phẩm độc nhứt vô nhị Đoạn Trường Tân Thanh (Truyện Kiều).  Xét cho cùng, Nguyễn Tất Nhiên hưởng được nguồn thi hứng tuyệt vời trong “5 năm si tình” từ 1967 đến 1972 với cuộc “tình si” cùng cô bạn học Bắc kỳ tên Duyên. Giả sử vào lứa tuổi 15 không gặp gỡ được một nhân vật nữ có cá tính “đặc biệt” như vậy, có lẽ Nguyễn Tất Nhiên cũng chỉ làm thơ hay cỡ như các bạn học đồng môn Hà Thu Thủy, Đinh Thiên Phương, Nguyễn Thị Hiền, Tưởng Dung, Nguyễn Thị Minh Thủy… và không chắc gì đã được chọn phổ nhạc tình học trò, để từ đó vang danh khắp nơi.

Lời kết

Nhưng câu hỏi cuối cùng được đặt ra: từ đâu Nguyễn Tất Nhiên lại có tánh lãng mạn đa tình quá vậy để dễ dàng “phóng bút” sáng tác thơ tình cho nhiều nhân vật nữ?.

Xét cho cùng, ngoài cá tính sẵn có, Nguyễn Tất Nhiên có 2 cơ hội “thuận tiện“:

a) tại trường trung học Ngô Quyền, nhờ Thầy Hiệu Trưởng Phạm Đức Bảo và ban Giám Đốc từng có những quyết định… táo bạo, dễ thương là mang “nhét ” một số nữ sinh vào lớp nam sinh (hoặc ngược lại!). Qua đó vào lúc 15 tuổi, Nguyễn Tất Nhiên và Duyên có cơ hội học chung với nhau trong lớp đệ Tứ vào niên khóa 1967/1968 để khởi đầu làm quen cho “5 năm si tình “. Nên nhớ, cũng nhờ quyết định cho nam nữ học chung lớp đã khiến nhiều cặp NQ quen nhau, rồi thương nhau để có khi thành bạn đời… mãi mãi. Như vậy, thực sự công lao của ban giám đốc NQ không phải… nhỏ đâu. Không có trường NQ với các nữ sinh “đặc biệt” như Bùi Thị Duyên, Hoàng Thị Kim Oanh, Nguyễn Thị Minh Thủy … thì khó lòng mà có những dòng thơ học trò Nguyễn Tất Nhiên và những cuộc tình học trò lãng mạn hơn “ba mươi năm chờ đợi“.

b) tại trường tiểu học Nguyễn Du năm 1957, lúc Nguyễn Tất Nhiên chỉ mới 5 tuổi đã được Cô giáo Hạnh đặc cách cho phép vào học lớp 1, mà người dì út (tên là Minh Nguyệt) đang theo học. Nguyễn Tất Nhiên sớm va chạm sinh hoạt nam nữ ngay từ đó (xem hình ảnh phía dưới). Biết đâu đúng như khoa học và nhà tâm lý học lừng danh Sigmund Freud (1856 – 1939) từng phân tích chứng minh rằng trong tiềm thức, con người đã bị ngoại cảnh chung quanh ảnh hưởng liên tục từ ngay lúc còn nằm trong bụng mẹ.

Chính vì vậy, cuối cùng vẫn là lời… cám ơn trường tiểu học Nguyễn Du và trường trung học Ngô Quyền của xứ bưởi Biên Hòa đã tạo nên môi trường thuận tiện để nảy nở được những vần thơ học trò vô cùng lãng mạn như Nguyễn Tất Nhiên từng sáng tác.

Người Xứ Bưởi / 2012

Học lớp 1 tại trường Nguyễn Du năm 1957. Nguyễn Tất Nhiên đứng thứ 2 (từ bên trái) của hàng thứ 2. Ảnh: ngo-quyen.org
Học lớp 1 tại trường Nguyễn Du năm 1957. Nguyễn Tất Nhiên đứng thứ 2 (từ bên trái) của hàng thứ 2. Ảnh: ngo-quyen.org

 [footer]

Lệ Thu hay ‘Nước mắt mùa thu’

(Tiếp nối chủ đề mùa thu, [dongnhacxua.com] vui mừng được giới thiệu bản nhạc “Nước mắt mùa thu” mà nhạc sỹ Phạm Duy đã ưu ái dành tặng cho nữ danh ca Lệ Thu. Ở đây nếu tinh ý sẽ nhận ra khả năng sử dụng ngôn ngữ rất khéo của nhà nhạc sỹ: “lệ” cũng có nghĩa là “nước mắt”, như vậy “Lệ Thu” có nghĩa là “nước mắt mùa thu”.)

Nước mắt mùa thu - Phạm Duy. Ảnh: VietStamp.net
Nước mắt mùa thu – Phạm Duy. Ảnh: VietStamp.net

nuoc-mat-mua-thu--1--pham-duy--vietstamp.net--dongnhacxua.com nuoc-mat-mua-thu--2--pham-duy--vietstamp.net--dongnhacxua.com

ĐÔI NÉT VỀ LỆ THU
(Nguồn: bichxuanparis.free.fr)

Ca sỹ Lệ Thu. Ảnh: http://my.opera.com/diemxuacafe
Ca sỹ Lệ Thu. Ảnh: http://my.opera.com/diemxuacafe

Lệ Thu nổi tiếng từ lâu lắm rồi. Tên tuổi cô gắn liền với rất nhiều ca khúc như “Hương xưa” của Cung Tiến, “Ngậm ngùi” của Phạm Duy, “Thu hát cho người” của Vũ Ðức Sao Biển, “Tình khúc thứ nhất” của Nguyễn Ðình Toàn ố Vũ Thành An,… Cho đến bây giờ, sau gần 50 năm cuộc đời ca hát, cô vẫn là giọng hát được đứng lên vỗ tay tại nhiều đêm ca nhạc. Người ta đã viết nhiều, ca ngợi nhiều về cô. Hôm nay, chúng ta chỉ nhắc với nhau đôi nét vui vui trong cuộc đời cô..

Lệ Thu nguyên quán ở Hà Ðông, nhưng ra đời ở Hải Phòng. Tên thật là Bùi Thị Oanh.

Một buổi sáng mùa Ðông, Lệ Thu đã kể chuyện thời thơ ấu của cô: Bố mẹ Thu có 8 người con nhưng không biết tại sao các con cứ đến 2, 3 tuổi là đã qua đời. Ðến lượt Thu, mới ra đời là các cụ vội gửi vào trường các bà soeur. Mẹ kể rằng lúc mang bầu Thu, cụ đi chùa, nằm mơ thấy một ông mặt đỏ trao cho một bọc, trong có đứa bé. Chẳng biết vì ông cụ đó hay vì các bà soeur mà Thu sống được sau 4 anh chị đã qua đời. Thu học đàn, học nhạc từ nhỏ trong trường bà soeur.

Thực ra, tên Thu theo các cụ định thì không phải là Bùi Thị Oanh. Thầy Thu làm chức tước nhỏ gì đó ở làng hay huyện Ðông Xá. Mẹ Thu là thiếp, thua thầy đến gần 30 tuổi. Thầy dặn mẹ là nếu sinh con gái thì đặt tên là Bùi Trâm Anh, còn nếu con trai thì đặt là Bùi Gia Bảo. Thế lúc đi làm giấy tờ, Tây nó hỏi, cụ sợ, theo nếp cũ là con trai thì lót tiếng “Văn,” con gái thì lót chữ “Thị,” nên bèn khai đại là Bùi Thị Oanh. Cho nên trong nhà vẫn gọi Thu là Trâm chứ không gọi là Oanh.

Trong gia đình, họ hàng của Lệ Thu có rất nhiều người hát hay. Theo Lệ Thu, “Nếu dễ dãi mà cho rằng Lệ Thu hát hay, thì những người kia phải là hát cực hay. Lệ Thu không ăn thua gì so với những người đó.” Thí dụ ông cậu Lệ Thu tên là Phúc mà anh Hoàng Hải Thủy cũng có biết, hoặc anh Ðoàn là anh họ của Thu cũng vậy. Không ai trong gia đình Thu đi hát cả vì các cụ khó lắm. Ông bà ngoại Thu có 9 người con, rất nhiều người hát hay trong đám con cháu các cụ, nhưng không ai dám đi hát.

Lệ Thu vào Nam năm 1953. Hằng ngày đến trường, ở nhà, lúc nào cũng ê a hát vài câu. Ðược mọi người khen lại càng hát tợn, nhưng dĩ nhiên là các cụ không biết. Khoảng năm 1960, 1961, lúc đang học thi tú tài, bạn bè hay rủ Thu lên ăn uống ở nhà hàng Bồng Lai. Nhân buổi sinh nhật hay gì đó của một cô bạn, bọn bạn bè tự động giới thiệu Thu lên hát một bài. Thu kể: “Mình tuy thuộc loại bạo gan và hay nghịch, nhưng tự nhiên bị xách đầu lên hát cũng thấy e ngại. Sau khi hát xong vừa trở về bàn là ông Lê, giám đốc nhà hàng đến tìm Thu. Ông ta hỏi Thu muốn đi hát không, sẽ có thù lao như thế này này. Mới tý tuổi đầu, thấy kiếm được tiền nhờ ca hát là Thu nhận lời. Kệ, cứ đi hát xem sao. Nhưng phải dấu các cụ.”

Lúc đầu Thu hát ít thôi, đến hát xong là về, nói dối là đến nhà bạn bè họp bài, làm bài chung. Nhưng rồi có một anh chàng, trước đây vốn vẫn thích Thu, bắt gặp Thu đi hát bèn mách cụ bà rằng “Con Oanh cuối tuần nó vẫn đi hát đấy, chứ không phải đi học hay đi chơi với bạn bè đâu.” Cụ sợ quá, đang chứa “một trái bom nổ chậm trong nhà,” nay nó lại tự động gắn thêm một đống ngòi nổ nữa! Thế là cụ tống Thu đi lấy chồng. Nhưng Thu vẫn mê hát.

Lúc thành hôn, Thu còn bé, mới có 18 tuổi, chẳng biết bổn phận làm vợ là cái gì cả, lại còn thích hát, gia đình nhà chồng cho rằng, Thu thuộc loại “xướng ca,” như vậy không được. Thế là chỉ có vài tháng, chồng bỏ mất rồi. “Ai biểu lấy con nít về làm vợ làm chi,” Thu cười.

Về tên Lệ Thu, trong một lần đến chơi bệnh viện Cộng Hòa thăm ông cậu làm việc ở đó, gặp dịp lễ lạt bệnh viện dự định tổ chức văn nghệ cho thương bệnh binh giải trí. Ông cậu hỏi Thu: Cháu muốn hát không? Lúc đó Thu chưa đi hát bao giờ, nhưng vẫn gật đầu bừa, nhưng lại sợ mẹ. Cậu hứa sẽ về “nói với mợ cháu là đi chơi với cậu thì mợ yên tâm.”

Ðến lúc lên hát, bất ngờ người ta hỏi tên là gì để còn giới thiệu. Thu ú ớ, nói bừa là Mộng Thu. Sau thấy chữ Mộng có vẻ mộng mị quê mùa quá, nhưng lỡ dính chữ “Thu,” nên lấy tên “Lệ Thu” cho rồi. Thu vội nói với ông animateur, bây giờ gọi là ông MC, “Này ông ơi, tên tôi là Lệ Thu nhé.” Thực ra không biết từ bao giờ, thuở còn bé lắm, Thu cứ thích tên Thu. Còn chữ Lệ thì lúc sắp lên hát cuống quá, lấy đại cho rồi, nhưng chắc cả hai chữ đó lởn vởn đâu đó trong tiềm thức.

Lệ Thu cho biết: Ðọc sách Thu cũng biết chữ “lệ” có nghĩa là vẻ đẹp, cũng có nghĩa là nước mắt. Không biết lúc bật ra cái tên tiền định đó, Thu suy nghĩ theo chiều hướng nào. Khi đang hát độc quyền ở phòng trà Queen Bee, dư luận cho rằng Thu hát đặc biệt hay một số bài của Phạm Duy như “Ngậm ngùi, Bên cầu biên giới, Thuyền viễn xứ…”

Mấy nhà văn nhà báo như anh Duyên Anh, anh Hà Huyền Chi cũng khen ngợi. Có lẽ vì vậy anh Phạm Duy làm bài “Nước mắt mùa Thu” sau khi nghe mọi người khen hát hay bài đó, cũng tặng Thu luôn. Còn anh Nguyễn Mạnh Côn thì phê bình Thu một câu, rằng là cô rất xinh, cô hát rất hay, nhưng khi hát bài “Ngậm ngùi,” thơ của người ta là “Tay anh em hãy tự đầu,” tại sao cô lại hát thành “Tay em anh hãy tựa đầu,” sao có chuyện ngược đời như vậy. Lúc đó Thu mới biết hóa ra chữ nghĩa cũng rắc rối lắm chứ, chỉ vì mình còn nhỏ, chẳng chịu học hỏi tìm tòi gì cả. Từ khi bị anh Côn mắng như vậy, Thu đã cẩn thận hơn nhiều. Lúc đó khoảng năm 1969 thì phải. Anh Hà Huyền Chi cũng làm bài thơ “Lệ đá,” anh Trần Trịnh phổ nhạc, Thu hát được anh khen rồi tặng luôn cho Thu.

Tên tuổi Thu gắn liền với một số bài vừa mới kể trên, nhưng hình như còn một số bài Thu hát đặc biệt hay như bài “Hương xưa.” Lệ Thu kể chuyện: “Thu còn nhớ có lần hát bài ‘Hương xưa’ với chỉ một người đệm đàn dương cầm. Sau này mới biết là hôm đó có anh Mai Thảo cũng đến nghe. Anh Mai Thảo có nói với Hoàng Dược Thảo là ‘Lệ Thu bất tử với Hương Xưa.’”

Nhưng các bạn có biết là sau khi hát xong bài đó, mồ hôi Thu ướt đẫm. Ði qua ông La Thoại Tinh, dương cầm thủ, Thu nói: “Trời ơi, tôi run quá. Ông ta bèn xòe bàn tay cho coi, cũng ướt đẫm mồ hôi. Bởi vì hồi đó rất hiếm khi người ta hát với chỉ một người đệm piano, thường bao giờ hát cũng với một ban nhạc, nhờ đó tiếng hát của mình dễ được nâng cao hơn, cái khiếm khuyết của mình dễ được che dấu hơn. Nhưng hát với chỉ một cây đàn dương cầm thì rất đáng ngại vào thời buổi đó.

Lệ Thu kể lại chuyện vui buồn trong đời ca hát

Ngay từ những ngày chập chững đi hát cho vui, như hôm hát ở Tổng Y Viện Cộng Hòa chẳng hạn, đã nhiều chuyện vui rồi. Hôm đó, có một bài Lệ Thu phải hát hợp ca với các anh chị thuộc Ban Nhạc Tổng Y Viện Cộng Hòa, hình như bài “Tiếng hò miền Nam” thì phải. Ðến phần solo, Lệ Thu hùng dũng hát “Ðây có đoàn người dân di cư, vang câu hát tình quê dạt dào,…” Tự nhiên Thu nghe ở dưới cười ồ lên, chẳng biết tại sao.

Ngay lúc đó tự nghĩ mình hát được mà, có sai nhịp, sai nốt nào đâu, sao thiên hạ lại cười nhỉ. Nhìn lại quần áo mình đang mặc có gì là lố bịch đâu. Hóa ra Thu đã hát: “Ðây có một người dân di cư,…” Lúc sắp hát, mình lo sợ, chỉ sợ trật nhịp, sợ sai nhạc, thành ra không để ý đến lời. Sau đó mấy anh mới nói: “Ai chẳng biết một mình cô di cư!” Ngay từ lúc tập tễnh hát, Thu đã tự nhủ một điều là luôn luôn phải hát rõ lời bài hát, thì rõ ràng là chữ “một” chắc chắn phải khác chữ “đoàn” rồi.

Về chuyện nhạc lý, Thu chỉ nhớ hồi bé học nhạc trong trường bà soeur. Sau này học nhạc với một bà đầm khi nhà ở đường Võ Tánh. Bà ấy dạy piano, nhưng Thu chỉ học classic.

Lệ Thu ở lại sài Gòn sau 1975 vì mẹ không đi. Lúc đó cụ khoảng 65 tuổi. Thu cũng theo chân bạn vào đủ các nơi, từ Tòa Ðại Sứ Mỹ đến bến Chương Dương. Lúc đó Thu còn ở với Hồng Dương. Vào một dịp khác, Lệ Thu sẽ kể chúng ta nghe về những ngày còn kẹt lại Việt Nam.

Năm 1980, Lệ Thu đến Mỹ.

[footer]

Ngô Thụy Miên viết về Trường Sa

(Tiếp nối dòng nhạc Trường Sa, [dongnhacxua.com] xin gởi đến bạn yêu nhạc xưa bài viết của nhạc sỹ Ngô Thụy Miên nhân dịp nhạc sỹ Trường Sa xuất bản tập nhạc đầu tiên cho riêng mình sau hơn 40 năm sáng tác. Nguồn: cothommagazine.com)

Ảnh: VietStamp.net
Bản nhạc ‘Xin còn gọi tên nhau’ – Trường Sa. Ảnh: VietStamp.net

 

xin-con-goi-ten-nhau--1--truong-sa--vietstamp.net--dongnhacxua.com

 xin-con-goi-ten-nhau--2--truong-sa--vietstamp.net--dongnhacxua.com

xin-con-goi-ten-nhau--3--truong-sa--vietstamp.net--dongnhacxua.com

Những năm cuối thập niên 60, đầu thập niên 70, giới yêu nhạc tại Sàigòn đã được nghe 3 ca khúc bất hủ của nhạc sĩ Trường Sa: Xin Còn Gọi Tên Nhau, Rồi Mai Tôi Đưa Em, và Mùa Thu Trong Mưa qua tiếng hát của nữ ca sĩ Lệ Thu. Chỉ với 3 bản tình ca này, vườn hoa âm nhạc Việt Nam đã có thêm một bông Hồng tuyệt đẹp.

Cá nhân tôi, khi nghe 3 ca khúc này đã yêu ngay cái nét nhạc dịu dàng, bình lặng như dòng suối nhỏ lượn quanh khu vườn yên tĩnh, rồi bất chợt trổi lên như cơn bão nổi, như con sóng thần ngập tràn dấu đau thương. Tôi cũng yêu nữa những lời ca sâu lắng, man mác buồn, chau chuốt nhưng không kiểu cách, không làm dáng. Cả 3 bài đều mang chung một nhịp điệu Slow buồn. Hồn nhạc lãng đãng, mênh mang diễn tả những cuộc tình lỡ làng, có lẽ xuất phát từ chuyện tình cảm mất mát của người nhạc sĩ tài hoa này. Hãy lắng nghe tiếng hát Lệ Thu vút cao khi diễn tả những dòng âm thanh trầm bổng kỳ diệu để thấy kỹ thuật viết nhạc và lời ca của anh đã có thể lôi cuốn, đưa đẩy, dẫn dắt người nghe vào những cơn mưa êm đềm, hay vào những cơn hồng thủy, chấn động, nát tan con tim:

Tình trong cơn ngủ mê
 Rồi phai trên hàng mi
Chợt khi mình nhớ về
Mộng thành mây bay đi  
Còn gì trên đôi tay
 Nên thầm hờn dỗi mình
Cho tình càng thêm say…

(Xin Còn Gọi Tên Nhau)

Chiều xưa em qua đây
Ru hồn nắng ngủ say
Lời yêu trót đong đầy
Đón em thu mây bay
 Tiễn em xuân chưa phai
Xót ngày vàng còn gì
 Đành đoạn rồi những lần chiều hẹn ước…

(Rồi Mai Tôi Đưa Em)

Rồi thật tình cờ chúng tôi có dịp quen biết nhau, và lại có những tháng ngày làm việc chung trong một chương trình nhạc trên đài phát thanh Quân Đội, để tôi nhận biết thêm một điều, Trường Sa, tác giả những bài tình ca đã làm rung động bao tâm hồn của tuổi trẻ thập niên 60-70, còn là một sĩ quan cấp tá của Hải Quân quân lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn đang tiếp tục hành quân, chiến đấu ngoài mặt trận.

Sau 3 ca khúc này, Trường Sa tiếp tục gửi đến người nghe Một Mai Em Đi, Tàn Tạ, Ru Em Một Đời, Như Hoa Rồi Tàn… Rất nhiều ca sĩ hàng đầu của nền tân nhạc Việt Nam lúc đó đã hát những sáng tác của anh, nhưng theo tôi, nữ ca sĩ Lệ Thu đã đưa những tình khúc cũng như tên tuổi của anh đến tuyệt đỉnh danh vọng. Có thể nói Lệ Thu đã chuyên trở được trọn vẹn những tình cảm, tâm tư nhạc sĩ Trường Sa gửi gấm qua những tác phẩm của anh.

Tháng 4 năm 75 chúng tôi mất liên lạc… cho đến một dịp tình cờ ở hải ngoại khi xem cuốn video Thúy Nga 44, tôi đã gặp lại anh qua một sáng tác anh viết sau này: Mùa Xuân Sao Chưa Về Hỡi Em, và sau đó Những Mùa Thu Qua Trên Cuộc Tình Tôi trên sân khấu Asia. Năm 2003 Trung tâm Thúy Nga Paris đã thực hiện cuốn dvd Thúy Nga 70 để vinh danh, cũng như tri ân những đóng góp của anh cùng hai nhạc sĩ Phạm Mạnh Cương và Lê Dinh vào nền tân nhạc Việt Nam. Vẫn dáng dấp quen thuộc, vẫn gương mặt hiền lành, tiếng nói điềm đạm. Và cho dù cuộc đời đã trải qua bao thăng trầm, đổi thay, những sáng tác sau này của anh như Mùa Xuân Sao Chưa Về Hỡi Em, Những Mùa Thu Qua Trên Cuộc Tình Tôi, Bài Tình Ca Cho Kỷ Niệm, Xin Yêu Nhau Dù Ngày Mai Nữa…vẫn tràn đầy xúc cảm, nét nhạc vẫn dịu dàng, êm ái, lời ca vẫn trau chuốt, mượt mà như thuở nào.

Mùa xuân sao chưa về hỡi em
Xua mây tan cho những ngày nắng êm
Lũ chim non gửi gấm khúc tự tình
Gọi xuân cho xanh mầu mắt em
Và mơ ước thắm thiết mãi lên, cho ta nói yêu em… 
(Mùa Xuân Sao Chưa Về Hỡi Em)

Thôi còn đâu nữa Sài Gòn qua bao tháng ngày chung đôi 
Nỗi buồn phong kín những mùa thu qua trên cuộc tình tôi
Theo ngàn mây mãi lang thang trôi vào tận cuối trời
Tới bên em Sài Gòn lắng đọng một thời yêu xưa vang bóng…
(Những Mùa Thu Qua Trên Cuộc Tình Tôi)

Một trong những nguyện vọng của anh là có thể gom góp tất cả những ca khúc anh đã sáng tác từ hơn 40 năm nay để in trong một tập nhac. Hôm nay trong niềm qúi mến đối với người nhạc sĩ một đời viết tình ca, và đã đóng góp rất nhiều cho nền tân nhạc của chúng ta, tôi xin được hân hạnh giới thiệu cùng các bạn tập nhạc qúi giá này.

NGÔ THỤY MIÊN

[footer]

Mùa thu trong mưa (Trường Sa)

Rất nhiều người cho rằng Sài Gòn không có mùa thu. Điều này không sai nhưng chưa  hẳn là hoàn toàn đúng. Sáng nay trời Sài Gòn trở lạnh. Ngồi nhâm nhi ly cafe thật. Nghe lại bản “Mùa thu trong mưa” của nhạc sỹ Trường Sa. Và bất chợt một cơn mưa ập đến. Với [dongnhacxua.com], như vậy là quá hạnh phúc, một hạnh phúc của “Thu Sài Gòn”.  Chúng tôi bỗng nhớ đến lời tâm sự của nhạc sỹ Trường Sa, lúc đó là hạm phó tàu tuần duyên Trường Sa trong Hải Quân của Miền Nam Việt Nam, về hoàn cảnh ra đời của “Mùa thu trong mưa”: trong một chiều dừng chân ở bến Mỹ Tho, một cơn mưa ập đến và khi cơn mưa chưa dứt, đường phố chưa lên đèn thì ông đã sáng tác xong nhạc phẩm này. Qua tiếng hát của Lệ Thu (một giọng ca mà ông hằng mến mộ) bản này đã nổi tiếng và gắn liền với tên tuổi của nhạc sỹ Trường Sa cũng như ca sỹ Lệ Thu qua hơn 40 năm.

Ảnh: ns-truongsa.blogspot.com
Ảnh: ns-truongsa.blogspot.com

 

Ảnh: ns-truongsa.blogspot.com
Ảnh: ns-truongsa.blogspot.com

Lâm Hào: Ông “vua” chế tạo guitar điện

(Trong giới nhạc công của Sài Gòn ngày xưa, nhạc sỹ Khánh Băng được cho là người đầu tiên đem cây ghita điện lên sâu khấu vào thưở nhạc rook-n-roll Âu Mỹ mới xâp nhập vào Việt Nam đầu những năm 1960. Lang thang trên internet, [dongnhacxua.com] may mắn tìm được một bài viết của tác giả Như Hà đăng trên Thể Thao & Văn Hóa ngày 28/01/2012 nói về Lâm Hào, người Việt Nam đầu tiên chế tạo thành công cây guitar điện mà Khánh Băng và nhiều nhạc công ngày trước đã từng dùng.)

Trước năm 1975 tại Sài Gòn, để sở hữu được cây guitar điện chính hãng thì rất khó, vì khó nhập hàng và quá đắt đỏ. Chính lúc ấy Lâm Hào xuất hiện, ông gần như đáp ứng 100% nhu cầu của nhạc công và nhạc sĩ chuyên nghiệp tại đây.

Cây guitar điện (xin gọi nôm na như thế) quan trọng như thế nào với giới chơi nhạc điện tử nói chung và nhạc rock’n’roll nói riêng thì khỏi cần phải bàn nữa, ai cũng biết rồi. Trước năm 1975 tại Sài Gòn, mà cụ thể đầu thập niên 1960, khi nhạc trẻ (cũng xin gọi nôm na như thế) Tây phương du nhập vào Sài Gòn, nhanh chóng được giới trẻ ở đây tiếp nhận, nhưng để sở hữu được cây guitar điện chính hãng thì rất khó, vì khó nhập hàng và quá đắt đỏ. Chính lúc ấy Lâm Hào xuất hiện, ông gần như đáp ứng 100% nhu cầu của nhạc công và nhạc sĩ chuyên nghiệp tại đây, vì đàn do ông chế tạo có chất lượng, nhưng giá thành khá rẻ, chỉ bằng khoảng 1/10, 1/20 giá của đàn nhập. Những đóng góp của Lâm Hào cho việc thịnh hành khái niệm “nhạc trẻ Việt Nam” thật khó phủ nhận, nhưng từ đó đến nay, hơn 50 năm, đây có lẽ là một trong vài bài viết hiếm hoi về ông.

Tay bass Tiến Chỉnh khẳng định thế hệ nhạc công và nhạc sĩ chuyên nghiệp ở Sài Gòn thập niên 1960, 1970 ai cũng từng sở hữu ít nhất một cây đàn của Lâm Hào, vì đây là nhạc cụ để lập nghiệp. Theo nhạc sĩ Thanh Châu, các đại nhạc hội lớn trước 1975 thường mời ông Lâm Hào sắp đặt âm thanh, mà gần như phần lớn guitar điện trên đó và nhiều nhạc cụ khác như ampli, echo là do chính ông chế tạo. Ông Châu cho biết thêm, sau năm 1975, vì tiếng đàn của Lâm Hào quá hay, độ ngân dài, tiếng chép tinh tế, nên nhiều nhạc sĩ cổ nhạc đã tìm mua đàn cũ về thay cần phím lõm để chơi nhạc vọng cổ, cải lương. Mãi tới thập niên 1990, guitar điện của Lâm Hào mới vắng bóng trên thị trường, vì hết nguồn cung cấp, chứ không phải hết nhu cầu.

“Bối cảnh” của Lâm Hào

Trước năm 1960, có thể nói là chưa có khái niệm nhạc trẻ, dù đã có những thanh niên, thường là giới khá giả, tập họp nhau lại để chơi nhạc cho vui, hoặc để tự chơi cho các party gia đình, vì giai đoạn này, vũ trường đang bị cấm. Sau năm 1960, do sự thắng thế của một loạt các ban nhạc trẻ như The Beatles, The Rolling Stones, The Animals…; và một loạt những phim ca nhạc như Pop Gear, The Young Ones…; và ở Pháp xuất hiện những ban nhạc trẻ, những ca sĩ trẻ như Les Chats Sauvages, Les Chaussettes Noires, Johnny Hallyday, Sylvie Vartan…. Tất cả đều ảnh hưởng đến Sài Gòn, khiến nhiều người bắt chước.

Lâm Hào thời trẻ. Ảnh: TheThaoVanHoa.vn
Lâm Hào thời trẻ. Ảnh: TheThaoVanHoa.vn

Làn sóng âm nhạc châu Âu thời này, có lẽ lần đầu tiên, đã tác động rất mạnh đến giới trẻ Việt Nam. Trước đây, các nhạc sĩ thường là những người theo nhạc nhà nghề, nhưng giai đoạn này, rất đông thanh thiếu niên, đặc biệt là ở Sài Gòn, gồm những người trẻ đang theo học bậc trung học, thuộc thành phần trung lưu, hoặc con nhà khá giả, đã tự phát lập nên những ban nhạc trẻ. Lúc đầu, chỉ là để vui chơi, nhưng sau đó, một số người trong số họ đã trở thành chuyên nghiệp. Trong số này có những tên tuổi như Elvis Phương, Công Thành, Đức Huy, Tiến Chỉnh, Paolo, Tuấn Ngọc, Billy Shane, Thanh Tùng, Thái Gia, Tùng Giang, Hồng Hải… – đây là giai đoạn trước ngày 1/11/1963.

Nhạc trẻ miền Nam chính thức hoạt động công khai sau ngày đảo chính chế độ Ngô Đình Diệm (1/11/1963), bởi ngay sau đó, lệnh cấm khiêu vũ và vũ trường bị bãi bỏ. Tướng Trần Văn Đôn và Tôn Thất Đính của chính quyền Sài Gòn lúc đó còn làm chủ tọa một đêm nhạc trẻ quy mô tại khiêu vũ trường Đại Kim Đô vào cuối tháng 11/1963. Đây cũng là đại hội nhạc trẻ đầu tiên của Sài Gòn, và Việt Nam. Theo nhạc sĩ Trường Kỳ, thế hệ của Công Thành và ban Les Fanatiques cũng từng tham dự một chương trình đại hội nhạc trẻ quy mô hơn sau đó, được tổ chức tại Trường Taberd vào năm 1965.

Hợp ca Thời Đại gắn bó lâu dài với đàn Lâm Hào. Ảnh: TheThaoVanHoa.vn
Hợp ca Thời Đại gắn bó lâu dài với đàn Lâm Hào. Ảnh: TheThaoVanHoa.vn

Chính trong giai đoạn sôi động này, khi mà nhu cầu đàn guitar điện và nhạc cụ điện tử leo thang, trong khi việc nhập khẩu rất hạn chế, lại đắt đỏ, Lâm Hào đã xuất hiện kịp lúc và hiệu quả. Là người Việt gốc Hoa, xuất thân ở Chợ Lớn, người cao to, tính tình dễ thương, sống rất uy tín, có tiệm đàn trên đường Triệu Quang Phục (số 142, theo căn cước của ông). Thời này, gần như 100% nhạc sĩ, nhạc công và ca sĩ chuyên nghiệp ở Sài Gòn đều phải đến tiệm của Lâm Hào để đặt đàn guitar điện, làm ampli, echo amplifier… Có những năm cao trào, xưởng của ông phải làm việc ngày đêm mới đủ nhu cầu của giới chơi nhạc trẻ từ Huế trở vào.

Có thể kể một ban nhạc tiền phong của nhạc trẻ Việt Nam là Hợp ca Thời Đại của anh em Dương Quang Định, Dương Quang Minh, Châu Nhi và tay trống Phùng Trọng, họ khá gắn bó với nhạc cụ của Lâm Hào. Những tên tuổi nổi tiếng thời bấy giờ (1963-1965) như Văn Trò, Jacques, Đức Huy, Văn Thái, Liêm “râu”, Thúy Ái, Hùng Tàu, Tiến Chỉnh, Nhơn “Bass”, Ngọc Tùng (ban The Black Caps)… cũng thành danh với nhạc cụ Lâm Hào. Sau năm 1965, một số người đã thành nhà nghề, đã đủ tài chính, thì mới bắt đầu mua các nhạc cụ ngoại quốc để sử dụng, lúc này các loại đàn tên tuổi như Hofner, Fender, Gibson, Gretsch… mới hiện diện phổ biến hơn.

Theo nhạc sĩ Trần Thạnh, trước 1975 tại Sài Gòn, chỉ có 3 loại guitar điện nổi tiếng về chất lượng âm thanh, đầu tiên là đàn của Mỹ, thứ đến là đàn Lâm Hào và sau cùng là đàn của Nhật. Lớp của Lý Được, Đạt “Da Vàng”, Linh “xù”… (thế hệ thứ ba, thứ tư của rock’n’roll Việt Nam) cũng không xa lạ với guitar Lâm Hào. Với một thời gian dài cầm đàn, nhạc sĩ Bảo Thạch nói rằng tiếng của cây đàn Lâm Hào có một “hương vị” rất riêng, nghe rất hấp lực, khó diễn tả cụ thể, ai từng chơi đều sẽ cảm được.

Tác giả Hữu Nghị từng viết trên Tuổi trẻ (14/10/2007) như sau: “Trong âm nhạc, ngay từ đầu thập niên 1960, làn sóng rock‘n’roll (với đại diện là ElvisPresley) và “sự xâm lược của làng nhạc Anh” (đại diện là The Beatles), với thành phần gồm ba guitar điện cộng dàn trống, vừa đàn vừa hát đã “đảo chính” phong cách biểu diễn cũ gồm dàn nhạc kèn trống đệm cho một ca sĩ hát, tạo thành một làn sóng trên khắp thế giới, sang đến cả Sài Gòn. Những năm đầu đó tậu được guitar điện hiệu Đức Thắng, ampli đàn hiệu Lâm Hào đã là ghê gớm rồi…”.

Một số nhạc sĩ và ban nhạc đang chơi nhạc cụ Lâm Hào. Ảnh: TheThaoVanHoa.vn
Một số nhạc sĩ và ban nhạc đang chơi nhạc cụ Lâm Hào. Ảnh: TheThaoVanHoa.vn

Lâm Hào với guitar Fender

Cũng giống như Leo Fender (1909-1991), nhà phát minh và chế tạo guitar điện vĩ đại người Mỹ – nhãn hiệu Fender, Lâm Hào gần như không biết chơi đàn, cả hai vì yêu thích chế tạo nhạc cụ mà làm nên thành tích.

Cây đàn Fender Stratocaster hoàn chỉnh thiết kế và chào hàng năm 1954 tại Mỹ, đến Sài Gòn vào khoảng 1957-1958, tuy đây là mẫu mã ảnh hưởng đến chế tác của Lâm Hào nhiều nhất, nhưng không phải đầu tiên. “Thủy tổ” của đàn Lâm Hào bắt nguồn cảm hứng từ cây Fender Telecaster, ra đời khoảng 1950 tại Mỹ, theo chân các ban nhạc người Philippines và nghệ sĩ người Pháp đến Sài Gòn trước năm 1954. Theo lời kể của vài nhạc công cùng thời, ở tuổi đôi mươi, Lâm Hào là một thợ điện tự học về điện tử, ông đã bỏ tiền ra mua Fender Telecaster (với giá tương đương một năm lương viên chức) về giải phẫu để nghiên cứu nguyên lý và cấu tạo từng chi tiết. Rất nhanh chóng, chỉ chừng một năm sau là ông đã chế tạo thành công cây guitar điện đầu tiên, mà nền tảng kỹ thuật và âm thanh của nó là cây Fender Telecaster; tất cả thân và cần đàn của Lâm Hào đều do nghệ nhân mộc tên Tiếp (quận 4) đóng. Nhạc sĩ Trần Thạnh nói rằng cây đàn Lâm Hào tuy là bản sao, nhưng là bản sao có sáng tạo riêng, với nhiều cải tiến, ví dụ như cần đàn ngắn hơn, phím và dây vừa vặn với thể trạng người Việt. Quan trọng nhất là âm thanh có những nét đặc thù, dù chuẩn mực và yêu cầu chung thì vẫn đạt được; đứng trên sân khấu, tiếng đàn của Lâm Hào là một chín một mười với Fender, ăn đứt đàn Nhật và một vài nước khác.

Sau này, khi hàng trăm cây đàn của Lâm Hào đã ra thị trường, thì giới am hiểu nhạc cụ thấy nó là sự pha trộn của Telecaster, Stratocaster, Fender Mustang và những đặc trưng âm thanh riêng, chẳng có ở nhãn hiệu nào. Cũng có vài thông tin chưa xác định được nguồn cho rằng Lâm Hào đã được Mỹ cấp mấy bằng sáng chế và có vài cải tiến, phát kiến của ông đã được Hãng Fender mua để ứng dụng (?).

Có một giai thoại kể rằng, ngay sau khi sang Mỹ định cư, Lâm Hào đã tìm đến Hãng đàn Fender để xin việc, họ chẳng biết kiểm tra tay nghề của ông thế nào, đành để ông làm thử một cây đàn tại chỗ xem sao. Sau khi ông làm xong tại xưởng, với niềm khâm phục, họ đã nhận ông vào làm việc ở bộ phận sản xuất đàn bằng tay và sản xuất theo yêu cầu của khách hàng, ông gắn bó suốt phần đời còn lại với hãng này, gần như không có chế độ nghỉ hưu. Giai thoại đóng đàn xin việc thế nào người viết chưa xác minh được, nhưng việc Lâm Hào làm trong Hãng Fender thì khá chắc chắn, vì có vài bạn bè và người trong gia đình biết.

Ban nhạc Dew Drop với hai nhạc sĩ rock gần như đầu tiên của Việt Nam là Khánh Băng (guitar, trái) và Phùng Trọng (trống) chẳng xa lạ với đàn của Lâm Hào. Ảnh: TheThaoVanHoa.vn
Ban nhạc Dew Drop với hai nhạc sĩ rock gần như đầu tiên của Việt Nam là Khánh Băng (guitar, trái) và Phùng Trọng (trống) chẳng xa lạ với đàn của Lâm Hào. Ảnh: TheThaoVanHoa.vn

Lâm Hào hiện thế nào?

4-5 năm nay gia đình không liên lạc được, vì ông đổi số điện thoại. Chỉ biết ông đang sống với vợ kế ở San Jose, vốn là một ca sĩ của đoàn Bông Sen, vẫn còn khỏe mạnh, 1-2 năm trước có về TP.HCM chơi. Vợ lớn của ông tên Hà Ái Cầu, có với ông một gái (tên Lâm Mẫn Huệ, sinh ngày 3/11/1956) và hai trai, họ đang sống ở Los Angeles.

Theo một nhà báo viết mảng âm nhạc tại California, có tin Lâm Hào đã qua đời cách đây vài tháng, nên email và điện thoại đã khóa, nhưng lướt tìm quanh các mạng thông tin thì chẳng có nơi nào đăng tải. 4-5 nhạc sĩ ở Mỹ từng quen Lâm Hào thì phản đối tin này, có người nói ông vẫn khỏe mạnh, thỉnh thoảng vẫn lui tới Hãng Fender để làm vài việc thủ công.

Theo bút tích của Hoàng Hựu Tân đề tặng phía sau các bức ảnh chụp từ năm 1962, thì Lâm Hào còn có tên hiệu là Lâm Nãi Hào. Theo bản sao thẻ căn cước cấp lần hai ngày 17/9/1970 thì Lâm Hào có tên Lâm Lục Đê, sinh năm 1933 tại Chợ Lớn, cha tên Lâm Kinh, mẹ tên Tô Mai. Lúc làm căn cước, ông cao 181cm, nặng 61kg. Nếu Lâm Hào còn sống, nay ông đã bước qua 80 tuổi, theo âm lịch.

Cũng xin kể thêm, ca sĩ Michel Polnareff (sinh 1944) người Pháp, sau khi nổi danh với ca khúc L’Amour Avec Toi(và ca khúc tiếng Anh tương tự: Love Me, Please Love Me)…  vào năm 1966 trên truyền hình Pháp đã được mời sang Sài Gòn lưu diễn. Khi lên sân khấu chơi, bị quyến rũ bởi phong thái và tiếng đàn của guitar điện Lâm Hào, ông đã đặt mua 5 cây đem về Pháp chơi và làm sưu tập, nên có lẽ tư gia của ca sĩ này là địa chỉ hiếm hoi để hiện nay ta có thể chiêm ngưỡng đàn Lâm Hào. Nói ra điều này, vì sau khi hỏi rất nhiều nhạc công/sĩ từng chơi đàn Lâm Hào, ngay cả người thích sưu tập đàn, cũng chẳng ai còn giữ một cây, họ chỉ toàn lưu giữ đàn hiệu quốc tế.

Như Hà
Thể thao & Văn hóa Cuối tuần

[footer]

Chiều nay gió đông về (Khánh Băng – Hà Đình Nguyên)

(Trong một bài viết trước về bản “Sầu đông” của nhạc sỹ Khánh Băng, [dongnhacxua.com]  có trích đăng bài viết của nhà báo Hà Đình Nguyên viết cho báo Thanh Niên đầu năm 2005 nhân sự ra đi của nhà nhạc sỹ. Trước đó 3 năm, anh Hà Đình Nguyên cũng đã có một buổi trò chuyện với nhạc sỹ Khánh Băng, khi đó đã 67 tuổi. Để cung cấp thêm thông tin cho bạn trẻ yêu nhạc xưa, [dongnhacxua.com] xin trích đăng lại bài viết này.)

Ban kích động nhạc Khánh Băng - Phùng Trọng. Ảnh: DiemXuaCafe
Ban kích động nhạc Khánh Băng – Phùng Trọng. Ảnh: DiemXuaCafe

CHIỀU NAY GIÓ ĐÔNG VỀ
(Nguồn: nhà báo Hà Đình Nguyên, đăng trên báo Thanh Niên năm 2002)

Trước mặt tôi là một ông già 67 tuổi. Dù chưa bước qua ngưỡng “thất thập cổ lai hi” nhưng đôi mắt của ông gần như đã mù lòa. Mọi việc, dù nhỏ nhặt bình thường nhất cũng cần có người thân giúp đỡ. Con người ấy đã một thời thành danh trong làng âm nhạc ở Sài Gòn những năm trước 1975. Giờ đây ông quẩn quanh trong nhà, với nỗi niềm “lực bất tòng tâm” như lời một bài hát của chính ông – nhạc sĩ khánh Băng: “Chiều nay gió đông về…”.

Sinh năm 1935 tại Thắng Tam (Vũng Tàu), ngay từ thời còn học tiểu học cậu bé Phạm Văn Minh đã khiến cho bạn bè “lác mắt” bởi ngón đàn mandolin. Cậu cũng luôn là người “đầu têu”, dàn dựng những chương trình văn nghệ học đường. Cậu học trò Minh cũng bắt đầu sáng tác nhạc trong thời gian này. Bản nhạc nào tâm đắc, cậu gửi lên Sài Gòn cho nhạc sĩ Võ Ðức Thu (anh ruột của người bạn thân tên Võ Ðức Thảo). Nhạc sĩ Thu xem, sửa chữa những chỗ sai sót bằng bút đỏ rồi gởi trả về Vũng Tàu như một kiểu học hàm thụ – nhờ thế mà khả năng, kiến thức về nhạc lý, sáng tác của Khánh Băng được củng cố và tiến bộ rất nhiều.

* Ðó là thời thơ ấu. Thực ra ông chính thức bước vào lĩnh vực ca nhạc từ lúc nào ?

Tôi có được chút tiếng tâm kể từ lúc lên Sài Gòn học trung học ở Trường Huỳnh Khương Ninh – Ða kao (năm 1949). Ở khu vực Tân Ðịnh này, chúng tôi thành lập một nhóm thanh thiếu niên yêu thích văn nghệ, trong đó có Vân Hùng, Tùng Lâm… thường xuyên tập dượt với nhau để chỉ… đi phục vụ đám cưới miễn phí. Vậy mà vui lắm! Tôi chuyên biểu diễn mandolin. Cũng nhờ cây đàn 8 dây này mà năm 1954 tôi thi đậu vào… làm nhạc công trong Ðài Phát thanh Sài Gòn. Sau đó chính Tùng Lâm tiến cử tôi với nhạc sĩ Trần Văn Trạch, ông này cho tôi được chơi đàn ở đoàn Sầm Giang của ông và giới thiệu tôi vào đàn ở Ðài Pháp – Á. Khánh Băng khởi nghiệp từ đó…

* Với cây đàn mandolin ?

– Mới đầu là vậy nhưng một thời gian sau tôi thấy cây đàn mandolin khó có chỗ để dụng vô, tôi bèn quay sang cây đàn guitar. Tự học. Phải mất hơn 2 năm khổ luyện. Có thể nói, tôi là người Việt Nam đầu tiên sử dụng cây guitar điện trên sân khấu.

* Trong lĩnh vực sáng tác, đến nay ông đã có bao nhiêu tác phẩm? Nhạc phẩm đầu tay của ông là bản nhạc nào?

Khó nhớ hết những bản nhạc tôi đã sáng tác. 500 thì… quá ít, 1.000 lại hơi nhiều. Tôi sáng tác từ thời còn… mặc quần cộc nên cũng chẳng nhớ nhạc phẩm đầu tay là bài nào. Có điều tôi không bao giờ quên là vào ngày thứ ba 15.3.1955 Ðài phát thanh Sài Gòn lần đầu tiên phát bài hát của tôi, bài Nụ cười thơ ngây do Minh Trang và Anh Ngọc song ca. Còn thành danh nhờ bài Vọng ngày xanh (1956). Bài hát này được Hội S.C.A.C.E.A.M (Hội Tác quyền quốc tế) có trụ sở tại Paris mời gia nhập hội với lời Pháp do nữ văn sĩ Francoise Sagan viết cộng với bài Sầu đông do tôi tự viết lời Pháp, tựa là Johnny Mon amour (1967).

* Thời đó, người ta gọi thể loại nhạc mà ông sáng tác là “kích động nhạc”. Ông giải thích cụm từ này như thế nào?

Thật ra chẳng có gì ghê gớm cả! Chẳng qua là một cách gọi để chỉ các bản nhạc có tiết tấu nhanh, sôi động (như nhạc trẻ bây giờ). Trước tôi đã có nhiều nhạc sĩ sáng tác thể hóa này, như Lê Yên (Ngựa phi đường xa), Y Vân (Sài Gòn đẹp lắm)… Tuy nhiên những bài hát Sầu đông, Có nhớ đêm nào, Tiếng mưa rơi… do tôi sáng tác vào khoảng năm 1962 vẫn được coi là những bài nhạc trẻ đầu liên ở Việt Nam. Mà tôi đâu chỉ viết nhạc kích động, tôi cũng viết nhạc trữ tình dưới các bút danh khác như: Anh Minh, Nhật Hà… Từ năm 1991 đến năm 1996, trước khi mắt bị mờ tôi vẫn còn sáng tác được hơn 100 bài, trong đó có những bài khá phổ biến như Trên nhịp cầu tre, Chờ người, Chiều đồng quê… mang phong cách nhạc đồng quê Nam Bộ.

* Ban nhạc Khánh Băng – Phùng Trọng nổi tiếng trước đây không lẽ chỉ có… hai người?

Ồ không, đông chứ! Nhưng chỉ lấy tên hai người trụ cột là Khánh Băng (guitar), Phùng Trọng (trống). Ngoài ra còn có Nguyễn Thành (saxo ténor), Sầm Sơn (guitar bass), Thu Phước (trompette). Ban nhạc được thành lập đầu thập niên 60. Ðây cũng là ban nhạc đầu tiên xuất hiện trên truyền hình. Năm 1966 ban nhạc được HCV do khán giả bình chọn là Ban nhạc chơi hay nhất trong cuộc thi do Hội Ký giả Sài Gòn tổ chức. Anh Phùng Trọng hiện còn sống ở TP Hồ Chí Minh.

* Quả là một thời lừng lẫy. Chắc chuyện tình cảm của ông thời đó cũng… lẫy lững không kém. Ông có thể tiết lộ chút ít về cô Khanh và cô Băng mà ông đã “mượn” tên ?

Lẫy lừng gì, rối rắm thì có. Không phải là mình tham lam gì, chỉ vì… cầm lòng không đậu (cười). Còn hai cô Khanh và Băng, chỉ là những ấn tượng đẹp đầu đời. Thuở ấy chúng tôi còn… tí xíu! Cô Băng giờ cũng đang… dưỡng lão ở Vũng Tàu, cô Khanh thì biệt tích từ lâu. Mới đó mà “mùa đông” đã về với chúng tôi rồi.

Chiều nay gió đông về. Dừng chân trên bến xưa…

Hà Đình Nguyên

[footer]

Khánh Băng (1935-2005): Mùa đông đã về

Nhớ về nhạc sỹ Khánh Băng, người yêu nhạc ngay lập tức nhớ đền nhạc phẩm “Sầu đông” bất hủ. Nhạc sỹ Khánh Băng tên thật là Phạm Văn Minh. Ông sinh năm 1935 tại Vũng Tàu và mất ngày 09/02/2005, nhằm ngày mùng một Tết Ất Dậu tại Sài Gòn. Nghệ danh Khánh Băng là ghép từ tên hai cô bạn từ thời tiểu học, một người tên Khanh, một người tên Băng và ông thêm dấu sắc vào thành Khánh Băng. Mấy hôm nay trời Sài Gòn trở lạnh, [dongnhacxua.com] xin được thắp một nén hương sưởi ấm linh hồn ông “nơi cuối trời” (lời trong bản “Sầu đông”).

sau-dong--0--khanh-bang--amnhac.fm--dongnhacxua.com
Ảnh bìa: amnhac.fm
sau-dong--1--khanh-bang--amnhac.fm--dongnhacxua.com
sau-dong--2--khanh-bang--amnhac.fm--dongnhacxua.com
Ban nhạc Thời Đại với Khánh Băng và Phùng Trọng. Ảnh: DiemXuaCafe
Ban nhạc Thời Đại. Ảnh: DiemXuaCafe

NHẠC SỸ KHÁNH BĂNG: “VỀ NƠI CUỐI TRỜI … NHỚ”
(Nguồn: nhà báo Hà Đình Nguyên, đăng trên Thanh Niên)

Trở về với công việc thường nhật sau những ngày nghỉ Tết, gặp nhau ở căn-tin Hội Âm nhạc TP.HCM, câu đầu tiên mà anh em văn nghệ hỏi nhau là: “Biết tin gì chưa ? Nhạc sĩ Khánh Băng đi rồi !”. “Khi nào ?”. “Ngay hôm mùng 1 Tết”. Rồi ca sĩ Ánh Tuyết gọi điện thoại báo tin… Chợt thấy lạnh cả hồn, ngày đầu xuân mà tự nhiên thấy xốn xang tê tái muốn bật lên câu hát: “Chiều nay gió đông về… Đành thôi nhớ mong, gởi cho gió đông, tình yêu giá băng vào nơi cuối trời… nhớ” (ca khúc Sầu đông của nhạc sĩ Khánh Băng) 

Tôi đến thắp nhang cho ông tại nhà riêng ở đường Chu Văn An (Q.Bình Thạnh), nhìn di ảnh cố nhạc sĩ trên bàn thờ mà chạnh nhớ ngày đầu tiên gặp ông cách đây hơn 3 năm. Dạo đó, sau rất nhiều lần dò hỏi tôi mới có được địa chỉ chính xác của ông, và… trước mắt tôi là người nhạc sĩ nổi tiếng một thời nay đã là một lão ông 67 tuổi, mái tóc bạc trắng còn đôi mắt thì hầu như đã mù hẳn. Tuy thế, giọng nói của ông vẫn sang sảng và trí nhớ rất minh mẫn. Chẳng thế mà khi tôi hỏi về ca khúc sáng tác đầu tay, ông trả lời: “Tôi không bao giờ quên được vào ngày thứ ba 15/3/1953, lần đầu tiên Đài Phát thanh Sài Gòn phát bài hát của tôi, đó là bài Nụ cười thơ ngây do Minh Trang và Anh Ngọc song ca”. Khi chia tay, tôi ngỏ ý xin ông một tấm ảnh thời còn trai trẻ và bản nhạc Sầu đông (gốc) để đăng báo, ông cười xin lỗi bảo là do đổi chỗ ở nhiều lần nên cả hình lẫn nhạc đều chẳng còn. Thế nhưng trưa hôm đó, dù trời nắng như đổ lửa ông vẫn đi xe ôm đến tòa soạn tìm tôi và trao bản nhạc mà ông vừa mượn lại của nhạc sĩ Tiến Luân. May sao, bìa sau của bản nhạc này có in hình đủ 4 người trong ban nhạc Thời Đại (Khánh Băng, Phùng Trọng, Dương Quang Định, Dương Quang Lê Minh) và tôi đã sử dụng tấm hình này trong bài viết. Đến bây giờ, hình ảnh một ông lão mù lòa đi xe ôm giữa một buổi trưa hực nắng vẫn còn xốn xang trong lòng tôi…

Nhạc sĩ Khánh Băng tên thật là Phạm Văn Minh, sinh năm 1935 tại Thắng Tam (Vũng Tàu). Nghệ danh Khánh Băng là tên của 2 cô bé bạn học từ bậc… tiểu học ghép lại (một người tên Khanh còn người kia tên Băng, cậu học trò Minh thêm vào một cái dấu sắc và mang tên này suốt đời). Được nhạc sĩ Võ Đức Thu hướng dẫn và nâng đỡ, Khánh Băng khởi đầu sự nghiệp ca nhạc với cây đàn mandoline và thi đậu vào làm nhạc công ở Đài Phát thanh Sài Gòn (1954), sau đó ông chơi đàn ở đoàn Sầm Giang của nghệ sĩ Trần Văn Trạch và ở Đài Pháp – Á. Khánh Băng được coi là người Việt Nam đầu tiên sử dụng đàn guitar điện trên sân khấu, trong thập niên 60 của thế kỷ trước. Ngoài biểu diễn, ông còn sáng tác rất nhiều ca khúc, tiêu biểu như: Vọng ngày xanh, Có nhớ đêm nào, Tiếng mưa rơi, Nếu một ngày, Đôi ngả chia ly, Nếu có nhớ đến… riêng bản Sầu đông ông còn đặt cả lời Pháp với tựa đề Johnny Mon Amour. Khoảng thời gian trước khi bị mù (từ 1991-1996), ông sáng tác được chừng 100 ca khúc, trong đó có những bài khá phổ biến như: Trên nhịp cầu tre, Chờ người, Chiều đồng quê… mang phong cách Nam Bộ.

Người nhà của cố nhạc sĩ kể lại: sáng mùng 1 Tết ông còn nói cười vui vẻ, ăn bánh mứt và nhận lời chúc Tết của con cháu. Đến trưa ông kêu mệt, đi nằm và rồi đi luôn vào cõi vĩnh hằng lúc 16 giờ 30 cùng ngày. Ngày Tết, hầu hết các cơ quan đều không làm việc nên việc thông tin về sự ra đi của ông có phần trở ngại. Đưa ông về an táng tại quê nhà Vũng Tàu (vào ngày mùng 4 Tết) cũng chỉ có gia đình và một vài văn nghệ sĩ thân thiết đã từng gắn bó với ông từ ngày xưa…

Hà Đình Nguyên

Xung quanh bài hát “Giã từ”

(Hầu hết người yêu nhạc chúng ta biết đến bản “Giã từ” nhưng là một sáng tác đặc sắc theo thể loại bolero dìu dặt của nhạc sỹ Thanh Tùng. Thế nhưng trong một tài liệu khác mà [dongnhacxua.com] vừa tìm thấy trên internet thì lại hé mở cho giới yêu nhạc nhiều thông tin thú vị. Trên tinh thần tôn trọng thông tin đa chiều, chúng tôi xin phép đăng lại bài viết của tác giả Ngữ Yên đăng trên NewVietArt.com)

Bài boléro Giã từ nầy được sáng tác từ trước 1975 nhưng hiện nay rất ăn khách qua rất nhiều giọng hát trong nước và hải ngoại như: Giao Linh, Phương Dung ,Bảo Yến, Chế Thanh, Quốc Đại và mới đây trong Giải Mai Vàng 2007 ( 11/1/2007 ) ca sỹ Đàm Vĩnh Hưng chiếm giải ca sỹ nhạc nhẹ cũng qua bài Giã Từ cho thấy sức hút của ca khúc nầy rất mạnh….

Trên các website viết khá nhiều về bài nầy như nhacvangonline,nhacso.net và Thanh Niên online… nhạc sỹ Tô Thanh Tùng có kể về cảm hứng sáng tác bài hát nầy bắt nguồn từ quán càfé sinh viên ở ĐaKao  vớI cô chủ xinh đẹp tên là Diễm. Thật ra từ trước 1975 bài nầy cũng rất thịnh hành ở Tây Ninh của nhạc sỹ Băn Vi. Băn Vi cũng gốc người Đồng Tháp như Tô Thanh Tùng. Ở Tây Ninh thập niên 70 Băn Vi là một tay trống trong Ban nhạc XDNT. Băn Vi là cách chơi chữ anh tên Huỳnh Văn Bi – đọc ngược Bi Văn- láy lại là Băn Vi. Trong một lần về Hồng Ngự chơi , Băn Vi có ghé vào một quán nước gặp Tô Thanh Tùng và ca bài nầy, nghe giai điệu mượt mà  ,ông rất thích bài nầy,muốn có bài hát nầy nên nhờ Băn Vi  ghi lại cho ông . Băn Vi lúc đó tuy đã chơi nhạc nhưng không tiếng tăm gì cho lắm ,cũng muốn nhờ người lăng xê nên viết ngay và đưa cho Tô thanh Tùng, ông có chỉnh sửa lại đoạn điệp khúc, cho in và nhờ nhạc sỹ Quốc Dũng hoà âm và nhạc sỹ Lê Dinh thu thanh ở Sài Gòn… ( chuyện nầy khi về Tây Ninh, Băn Vi có kể lại cho người bạn thân- làm chung công sở là Nhạc sỹ Hoài Nguyên biết )

Trước 75 bài hát được xuất bản đứng hai tên : Tô Thanh Tùng và Băn Vi ,nhưng sau nầy không thấy để tên Băn Vi nữa. Về xuất xứ bài hát nầy, Băn Vi lấy cảm hứng từ cô gái ở Chợ Cũ -Long Hoa. Sau khi cô đi lấy chồng ,anh cô đơn viết nên dòng nhạc:..tuổi đời chân đơn côi ,gót mòn đại lộ buồn, đèn đêm bóng mờ nhạt nhòa… đường phố Long Hoa lúc đó ánh đèn mờ và yếu ớt tỏa sáng nhạt nhoè. Tại Tây Ninh mấy chục năm qua người yêu nhạc, ai cũng biết giai thoại về bài hát nầy và ca rất nhiều các nơi…..Năm 2006 khi ca sỹ Dạ Trường ở Cali về nước ( làm chung vớI Băn Vi ngày xưa) có họp mặt bạn bè cũ làm chung trong Đoàn văn nghệ ngày ấy như: anh Huệ, anh Phong, Hoài Nguyên,chị Cúc.. mọi ngườI đều nhắc lại kỉ niệm về bài Giã Từ. Anh Dạ Trường kể lại : khi sáng tác có câu: Người về trong thương nhớ ,người đi nhớ thương hoài…Dạ Trường thấy không ổn,sửa lại:..Người về trong thương nhớ ,người đi nhớ thương người  Băn Vi nghe có lí nên đồng ý và nhiều người trình diễn bài nầy trước khi Băn Vi gặp Tô Thanh Tùng

Những năm sau Giải phóng khi các Đoàn hát về Tây Ninh trình diễn, trong đó có ca sỹ Bảo Yến hát bài Giã Từ, Băn Vi còn than với tôi làm sao lấy lại tác quyền để ca tràn lan quá… ( nhất là trong các phòng karaoké).

Thời gian đã gần 40 năm qua nên hiện nay bài hát gốc không ai còn giữ, nhưng trong tâm tưởng người yêu nhạc Tây Ninh, nhất là những ngườI thế hệ U50 hể nhắc đến Giã Từ là nhắc đến Băn Vi, khi anh còn làm Trưởng ban văn hoá Thị trấn Hoà Thành, thậm chí khi anh mất mọi người đến dự còn đề nghị hát lại bài Giã Từ.

Chuyện Băn Vi gặp Tô Thanh Tùng ở Đồng Tháp tình tiết ra sao  thì chỉ có Tô Thanh Tùng biết mà thôi, vì Băn Vi đã mất từ năm 2004. Xét về lí ,thì Tô Thanh Tùng  có  cơ  sở về  tác giả  bài hát ( vì ông đã in và thu đĩa, có công lăng xê bài hát ,) nhưng về tình thì làm sao đây ,còn xét lại. Băn Vi đã mất nên không lên tiếng được,còn Tô Thanh Tùng đang ở Bình Phước có nhiều đêm phải suy nghĩ lại…..về tình nghệ sỹ. chăng??…..trong đầu của nhạc sỹ còn nhớ lại người em Băn Vi ngày nào gặp ở Đồng Tháp chăng ????? (Tô Thanh Tùng sanh năm 1944, còn Băn Vi sanh năm 1949 

Xem thêm: Tô Thanh Tùng và “thương hiệu bolero”

[footer]

“Còn chút gì để nhớ” được phổ nhạc và hát lần đầu tiên tại Pleiku như thế nào?

Tiếp nối bài viết về nhạc phẩm bất hủ “Còn chút gì để nhớ“, hôm nay  [dongnhacxua.com] trân trọng giới thiệu một bài viết của tác giả Nguyễn Quang Tuệ – ghi theo lời kể của ông N.H – đăng trên báo Gia Lai Online, số Xuân Quý Tỵ 2013

Pleiku. Mùa mưa. Khoảng năm 1970. Trước một chút, tôi bị bắt quân dịch, rồi làm lính kiểng. Lo lót để được ở lại thị xã, công việc chủ yếu của tôi là… chơi nhạc. Pleiku hồi ấy được mệnh danh là thị xã của lính, thị xã của binh khí, xe pháo. Lính tráng có lúc nhiều gấp ba lần dân Pleiku.

Nhưng công bằng mà nói, Pleiku cũng là nơi có rất nhiều quán xá, câu lạc bộ gắn liền với âm nhạc. Tôi còn nhớ, hồi đó một số quán cà phê ở Pleiku vẫn thường tổ chức những đêm thơ, nhạc một cách khá bài bản, ví như quán Văn, Tay Trái,… Pleiku ngày ấy cũng còn là nơi lui tới khá thường xuyên của nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng, một số người trong đó, còn sống và sáng tác cho đến tận bây giờ.

con-chut-gi-de-nho--nguyen-quang-tue--dongnhacxua.com
Còn một chút gì để nhớ (Vũ Hữu Định). Nguyễn Quang Tuệ thiết kế.

Ngoài hai mươi tuổi, tôi cùng vài ba anh em thân quen đồng trang lứa khác chơi nhạc cho khá nhiều nơi trong thị xã. Thu nhập kể ra cũng không đến nỗi nào nhưng quan trọng là vào thời điểm ấy, tính mạng mình được an toàn hơn là phải ra mặt trận. Một hôm, khoảng hơn 20 giờ, sau khi chơi nhạc, chúng tôi đang sửa soạn rời câu lạc bộ Đại Hàn (Korea Club)-nằm trên đường Hùng Vương (đường Hoàng Diệu cũ, chỗ sát tường rào Nhà Văn hóa Lao động, gần đối diện với cổng Trường THPT Chuyên Hùng Vương bây giờ) để trở về nhà thì có một tốp người đi vào. Sở dĩ hàng đêm chúng tôi phải về sớm là vì, hồi đó, chừng 22 giờ hoặc trước 22 giờ một chút, Pleiku đã phát lệnh giới nghiêm, cấm người dân ra khỏi nhà.

Tôi nhìn thấy trong nhóm đang đi vào ấy có mấy người tôi biết mặt, biết tên từ trước, số còn lại thì sau lần gặp gỡ ấy, tôi mới biết họ. Đó là nhạc sĩ Phạm Duy, nhà thơ Kim Tuấn (tức Nguyễn Phước Vĩnh Khuê (1938-2003), quê Hà Tĩnh, hậu duệ của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, tác giả các lời thơ được phổ nhạc nổi tiếng như Những bước chân âm thầm, Anh cho em mùa xuân, đồng thời là thầy dạy tiếng Anh của anh em tôi ở Pleiku), đại úy quân cảnh Nguyễn Vinh Hiển (nhà văn Hoàng Khởi Phong, tác giả của tiểu thuyết Người trăm năm cũ, Nhà Xuất bản Hội Nhà văn, 2009).

Rạp Chiếu bóng Thanh Bình, năm 1969. Ảnh tư liệu, Nguyễn Quang Tuệ sưu tầm.
Rạp Chiếu bóng Thanh Bình, năm 1969. Ảnh tư liệu, Nguyễn Quang Tuệ sưu tầm.

Cùng đi với những văn nghệ sĩ ấy còn có một vài người khác nữa. Nhưng cho đến tận bây giờ, tôi vẫn không sao quên được một người đã gây cho tôi những ấn tượng mạnh trong buổi tối hôm ấy. Người ấy trẻ, trạc tuổi tôi, mặc một tấm áo màu xám, sau lưng có dòng chữ LCĐB in đậm.

Thấy chúng tôi đứng dậy toan về, nhạc sĩ Phạm Duy nói: Ở nguyên đó đi, có việc cần đấy. Chúng tôi miễn cưỡng chờ, dù trong lòng ai chắc cũng đã nóng như lửa đốt, vì giờ giới nghiêm đã tới rồi. Dường như biết sự lo lắng của mấy anh em nhạc công, ông Phạm Duy lại bảo: Lát có xe đưa về. Cứ yên tâm. Đến nước này thì chúng tôi cũng đành yên tâm vậy, vả lại có ông sĩ quan quân cảnh ở đây, chắc chúng tôi sẽ không bị làm phiền vì về nhà lúc đã quá giờ quy định.

Nhạc sĩ Phạm Duy kéo ghế ngồi xuống, mấy người đi cùng lặng lẽ tản ra xung quanh. Ông lấy trong túi cái áo màu đen đang mặc ra một tờ giấy và một cây bút rồi bắt đầu kẻ các dòng nhạc rất nhanh. Một lát sau, thấy chúng tôi đã đứng, ngồi sẵn sàng bên các nhạc cụ quen thuộc của mình, ông hất hàm bảo: Đô trưởng, boston nhé. Và thế là ông cầm tờ giấy hát trước, mấy anh em tôi đệm theo sau. Ngoài trời lúc ấy có mưa nhưng không nặng hạt lắm.

Giọng Phạm Duy lúc bổng khi trầm khá cuốn hút. Ông dứt lời, mọi người vỗ tay chúc mừng. Tôi nhớ, hình như Phạm Duy hát xong có đặt tờ giấy xuống bàn, gạch sửa chút ít gì đó, hát lại một vài câu rồi mới gấp nó lại bỏ vào túi áo thì phải. Riêng người đặc biệt của tôi đêm ấy thì không nói gì, anh lặng lẽ ngồi đó cho đến khi chúng tôi được một chiếc xe Jeep đưa về tận nhà, mà không bị ai xét hỏi dọc đường. Lúc ấy, tôi đã biết: Anh là Vũ Hữu Định, một người lính phản đối chiến tranh nên bị đày lên mặt trận cao nguyên nguy hiểm trong màu áo LCĐB (lao công đào binh).

Nhiều chục năm đã trôi qua, bài thơ Còn một chút gì để nhớ của Vũ Hữu Định sau khi được Phạm Duy chắp cánh, có thể nói đã trở nên bất tử, suốt từ sau những năm 1970 của thế kỷ trước đến nay. Tôi rất thích khi có người viết rằng Vũ Hữu Định (và cả Phạm Duy nữa) đã đội vương miện cho thành phố này-Phố núi Pleiku. Tôi biết Vũ Hữu Định từ dạo ấy. Nhưng cũng phải nói thật, ban đầu, tức cái đêm hôm đó, tôi quý anh không phải vì thơ, mà chính là vì thấy… lạ quá, nể phục trong lòng quá.

Trong đầu tôi bao năm vẫn cứ mãi loanh quanh một câu hỏi: Tại sao những văn nghệ sĩ nổi tiếng như thế lại cất công đi tìm anh, chơi với anh, coi anh như bạn bè thân thiết, trong khi anh đang là lao công đào binh, một người đã phải đứng trước tòa án binh lãnh án, bị đày ra phục dịch tại mặt trận, nơi cái chết có thể đến bất cứ lúc nào? Sau này tôi mới hiểu, đằng sau thân hình thấp nhỏ kia, bên trong tấm áo xám ấy là cả một tâm hồn lớn của một tài năng. Và, những người lớn đã vì tài năng mà quý nhau, đến với nhau, bất kể thân phận cụ thể…

Rất nhiều năm sau, khi tập thơ của Vũ Hữu Định được Nhà Xuất bản Trẻ ấn hành, internet đã phổ biến rộng rãi và nhất là khi nhạc sĩ Phạm Duy trở về Việt Nam định cư, thường tổ chức các đêm diễn lớn, tôi đã đọc thêm được ở đâu đó những thông tin về bài thơ Còn một chút gì để nhớ. Rằng nó đã được viết hồi năm 1970, từng được đăng trên tạp chí Khởi hành… Nhạc sĩ Phạm Duy trong một lần lên Pleiku tìm cảm hứng sáng tác, đã gặp Vũ Hữu Định và như ông từng viết thì: Vũ Hữu Định chính là một thi sĩ đích thực. Giống nhiều người khác, khi phổ thơ, vẫn thường thêm vào hay bớt đi một vài câu chữ của nguyên bản, nhưng riêng với Còn một chút gì để nhớ thì Phạm Duy “kính trọng hoàn toàn bố cục (structure) cũng như vận tiết (prosodie) của thi phẩm”-như ông thừa nhận.

Có thể, sau cái lần tự tay viết những nốt nhạc đầu tiên cho tác phẩm của mình tại Pleiku ấy, nhạc sĩ Phạm Duy còn chỉnh sửa thêm nữa trước khi công bố để bài hát trở nên nổi tiếng. Nhưng với tôi, đó là một kỷ niệm khó quên, dù vào thời điểm ấy, tôi chưa hoàn toàn ý thức được vấn đề, vì bài hát chưa được ai biết, ngoài tác giả, vài bạn bè của ông, trong đó có Vũ Hữu Định và chúng tôi-những người chơi nhạc tình cờ được Phạm Duy nhờ vả chút ít trước giờ giới nghiêm, thời mà Pleiku còn như là… trại lính.

Pleiku từ một thị xã bé nhỏ, nay đã được mở rộng, khác xưa rất nhiều. Tôi đã ở đây suốt từ thời ấu thơ, cho đến lúc về già, chứng kiến biết bao thay đổi. May mắn thay, dù cuộc sống có biến động thế nào đi chăng nữa, tôi vẫn được làm công việc mà mình yêu thích, đó là chơi nhạc và dạy nhạc. Trong cơ man âm thanh vang lên mỗi ngày ấy, tôi và rất nhiều những bạn trẻ yêu nhạc, vẫn dành những tình cảm trìu mến cho thành phố này. Chúng tôi đã yêu quý, gắn bó với Phố núi Pleiku, một phần vì âm nhạc, trong đó có tác phẩm của Phạm Duy-Vũ Hữu Định-Còn một chút gì để nhớ.

Người em sầu mộng (Y Vân – Lưu Trọng Lư)

Trong một bài viết về nhạc sỹ Y Vân, tác giả Lê Thiếu Nhơn có nhắc đến ca khúc ‘Người em sầu mộng’ . Theo tác giả thì ca khúc này nhạc sỹ Y Vân sáng tác vào thập niên 1980. Thật ra nhạc phẩm này Y Vân phổ theo ý thơ của nhà thơ Lưu Trọng Lư và đã nổi tiếng qua tiếng hát Sỹ Phú từ trước 1975. Theo bản nhạc mà [dongnhacxua.com] sưu tầm được thì bản nhạc này đã được Diên Hồng phát hành năm 1963 tại Sài Gòn.

Theo hiểu biết của chúng tôi, những ngày còn ở Hà Nội (trước năm 1952), chàng trai trẻ Trần Tấn Hậu có đi dạy nhạc cho một người con gái có tên là Tường Vân, con của gia đình quyền thế thời Pháp thuộc. Không biết chuyện tình cảm giữa nhà nhạc sỹ và nàng Tường Vân sâu đậm đến mức nào mà sau này khi bước vào sự nghiệp sáng tác, ông lấy nghệ danh là Y Vân, tức “yêu Vân”. Nghe nói sau đó nàng Tường Vân qua Pháp và Y Vân cũng có vợ con đề huề nên  chuyện ngày xưa chắc chỉ còn là kỷ niệm.

Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

nguoi-em-sau-mong--2--y-van--luu-trong-lu--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com nguoi-em-sau-mong--3--y-van--luu-trong-lu--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

[footer]