Như một nén nhang lòng thắp lên cầu mong cho linh hồn nhạc sỹ Nguyễn Đình Toàn sớm siêu thoát về miền cực lạc, DòngNhạcXưa xin gởi đến người yêu nhạc bản nhạc nổi tiếng mà ông viết cuối thập niên 1970, khi ông còn đang ở trong trại tù cải tạo. Thông qua những bạn tù đã được thả trước đó, nhạc phẩm này vượt đại dương để có mặt trong băng cassette ‘Người di tản buồn’ xuất bản năm 1979 tại hải ngoại.
Có một chi tiết thú vị là trong bản ghi âm này, Khánh Ly đã hát ‘đâu rộn ràng giọng hát Thái Thanh’, trong khi bản gốc mà Nguyễn Đình Toàn muốn viết ‘đâu rộn ràng giọng hát Khánh Ly’. Sau này, khi đã sang Mỹ, nhạc sỹ có tâm sự sở dĩ ông dùng tên ‘Khánh Ly’ vì ông và ca sỹ có một mối thâm giao trước đó khi còn ở Sài Gòn; và hơn nữa chữ ‘Ly’ đi có vần hơn với những câu trước:
Sài Gòn ơi! Đâu những ngày mưa mùa khoác áo đi Tay cầm tay nói nhỏ câu gì Đâu quầy hoa quán nhạc đêm về Đâu rộn ràng giọng hát Khánh Ly
Còn riêng Khánh Ly thì cho biết cô không muốn tự hát về bản thân và cũng vì lòng mến mộ với đàn chị Thái Thanh nên trong lần ghi âm đầu tiên cô đã hát hai chữ ‘Thái Thanh’. Sau này, những ai hiểu chuyện đều đã hát đúng nguyên tác: ‘đâu rộn ràng giọng hát Khánh Ly’.
Đôi lời góp vui để thấy cái cách đối xử thật tế nhị của giới văn nghệ sỹ thời xưa!
Được sự cho phép của những người quản trị trang web casithaithanh.wordpress.com, [dongnhacxua.com] xin đăng bài viết của nhà văn Mai Thảo về nữ danh ca Thái Thanh.
[dongnhacxua.com] vừa nhận được bài viết của tác giả Việt Lang từ trang www.casithaithanh.wordpress.com. Trên tinh thần tôn trọng thông tin đa chiều, chúng tôi xin cảm ơn tác giả và đăng bài viết này.
Gần như đất nước nào cũng có một hình tượng nữ danh ca để đại diện cho dân tộc mình. Không dám chạm đến từ “diva” vì nó đã bị lạm dụng và có thể khiến mỗi người nghĩ đến một khía cạnh khác nhau: thành công về mặt thương mại, về mặt số lượng khán giả, v.v…. Xin chỉ chú tâm về những nữ ca sĩ được đất nước họ xem như di sản văn hóa. Nước Pháp có Edith Piaf, Bồ Đào Nha có Amalia Rodrigues, đảo quốc Cape Verde có Cesaria Evora, Mỹ có Billie Holiday. Chắc chắn trước và sau họ đã có những giọng ca nữ khác kiếm ra nhiều tiền hơn, có nhiều khán giả hơn, nhưng lại chẳng có được cái địa vị của một giọng ca đã đi vào lịch sử dân tộc như họ. Họ có những điểm gì chung?
Trước hết phải là khả năng ca hát xuất chúng, nhưng nổi bật nhất vẫn là bản sắc dân tộc trong nghệ thuật, từ trong cách phát âm ngôn ngữ đến nhạc tính, nhất nhất đều rất tiêu biểu cho quê hương họ. Một yếu tố nữa, đó là cuộc đời và âm nhạc của họ đều trải qua và phản ảnh nhiều giai đoạn thăng trầm, đau đớn của đất nước,“khóc cười theo phận nước nổi trôi”. Thái Thanh đã hội đủ cả ba điều kiện trên. Bà lớn lên trong một gia đình mà cả cha lẫn mẹ đều hát và đàn nhiều nhạc cụ dân tộc, như Phạm Duy đã viết trong hồi ký và cả chính Thái Thanh cũng đã xác nhận trong một cuộc phỏng vấn với Thụy Khuê: “Mẹ tôi chơi đàn tỳ bà hay lắm, cho nên cái chất dân ca nó ngấm vào mình từ lúc còn nhỏ.” Bà diễn được cái hồn của những bài ca nhuộm màu dân ca như Đố Ai, Nụ Tầm Xuân, Hội Trùng Dương…. đã đành, mà khi tiếp xúc với những dòng nhạc mới hơn như Paris có gì lạ không em, Tuổi 13, Nghe những tàn phai…. bà đã “dân tộc hóa” chúng bằng cách nhấn nhá, luyến láy rất Việt Nam. Được nuôi dưỡng bằng những điệu dân ca của cha mẹ từ thời thơ ấu ở Hà Nội, bắt đầu ca hát trước khán giả trong chiến khu trong những ngày tháng kháng chiến chống Pháp, trở thành giọng ca đắt giá nhất ở Sài Gòn hoa lệ thập niên 50, 60, 70, tắt hẳn trong suốt 10 năm(1975-1985), cuối cùng sống lưu vong ở Mỹ và ca hát trong niềm thương nhớ quê mẹ suốt hơn 10 năm trước khi giải nghệ khi mái tóc đã bạc trắng. Thái Thanh sống cuộc đời của nhiều triệu khán giả và hát lên nổi lòng của nhiều thế hệ.
Những Edith Piaf, Amalia Rodrigues, Cesaria Evora đã nghiễm nhiên đi vào lòng của đại đa số khán giả của đất nước họ. Thái độ của thế hệ trẻ của Pháp, Bồ Đào Nha, Cape Verde và Mỹ cho ta thấy họ đã và sẽ là một hình tượng được tôn thờ và bất tử. Riêng hoàn cảnh của Thái Thanh thì dường như vẫn còn có một cái gì đó bấp bênh, mơ hồ vì Thái Thanh không có được sự liên tục trong các thế hệ khán giả như các “diva” kia. Suốt thời kỳ chiến tranh 1954-1975, một nửa đất nước ở phía Bắc không hề được tiếp xúc với giọng ca Thái Thanh. Sau chiến tranh thì một số đông khán giả thượng lưu và trung lưu cũ của miền Nam đã di tản ra nước ngoài. Tại đây, con cháu họ trong thập niên 80, 90 chỉ làm quen với những ca sĩ với lối phát âm, có thể vô tình, có thể cố ý, lơ lớ hoăc điệu đàng đến độ họ tạo ra một tiêu chuẩn mới trong âm nhạc: phát âm hời hợt và ca xướng với mục đích tạo ra âm thanh êm dịu, không đòi hỏi sự suy tư hay tập trung tư tưởng. Trong nước thì nhạc vàng bị cấm một thời gian dài . Thái Thanh bặt tiếng và trở thành tàng hình trong suốt 10 năm sau 1975. Vậy là một thập niên của sự nghiệp của bà bị lãng phí. Đau đớn nhất là các tài liệu, băng đĩa, chương trình biểu diễn của bà trên truyền hình đều đã bị thiêu hủy.
Ta tự hỏi trong vài chục năm nữa, có thể lớp khán giả mới của Việt Nam, sau khi đã chán chê với những y phục gợi cảm, vũ đoàn hoành tráng, với những của giai điệu khi Hàn, khi Hoa, khi Mỹ, sẽ suy tư thế nào về di sản ca nhạc thế kỷ 20 của Việt Nam? Có ai sẽ nhận ra Thái Thanh là gương mặt tiêu biểu và đương nhiên ? Nhưng dẫu cho Thái Thanh, vì hoàn cảnh nghiệt ngã của lịch sử, chẳng bao giờ đạt được cái tượng đài đó trong lòng đại chúng, chắc chắn sẽ có người này, kẻ nọ, trong 20, 30 năm nữa, sẽ vô tình lật lại những ca khúc và trang sử của thế kỷ 20. Rồi họ sẽ thốt lên.: “Ôi ngát hương thời gian mùi thạch thảo” (1) để rồi lại chùng giọng “trùng dương ơi có xót xa cũng hoài mà thôi” (2). Và có lẽ Thái Thanh cũng cần “Chỉ chừng đó thôi” (3).
(1) Ca khúc Mùa Thu Chết (Phạm Duy) (2) Ca khúc Ngày đó chúng mình (Phạm Duy) (3) Chỉ chừng đó thôi (Phạm Duy)
Trong dòng nhạc xưa, chúng ta đôi khi bắt gặp những hình mẫu có thật ngoài đời được các nhạc sỹ hay thi sỹ đưa vào trong các sáng tác. Đó có thể là Diễm trong “Diễm Xưa” hay Duyên trong “Thà Như Giọt Mưa”. Hôm nay, [dongnhacxua.com] xin giới thiệu thêm Ngọ trong “Ngày Xưa Hoàng Thị”, thơ Phạm Thiên Thư qua nét nhạc Phạm Duy.
Đầu thập niên 70 của thế kỷ trước, ca khúc Ngày xưa Hoàng Thị (thơ Phạm Thiên Thư, Phạm Duy phổ nhạc) đã từng gây xôn xao trong đời sống âm nhạc miền Nam. Cả thơ lẫn nhạc đều rất tuyệt vời…
Từ tiếng hát cao vút của Thái Thanh, những ca từ của Ngày xưa Hoàng Thị chấp chới đi vào hồn người: “Em tan trường về, đường mưa nho nhỏ. Chim non lề đường, nằm im giấu mỏ. Anh theo Ngọ về, gót giày lặng lẽ đường quê…”. Phải nói rằng, dạo đó thơ Phạm Thiên Thư là hiện tượng, bởi sau thành công của Ngày xưa Hoàng Thị, nhạc sĩ Phạm Duy phổ thêm liên tiếp những ca khúc từ thơ Phạm Thiên Thư: Đưa em tìm động hoa vàng, Em lễ chùa này, Gọi em là đóa hoa sầu… Người ta đua nhau tìm đọc thơ Phạm Thiên Thư – một tu sĩ Phật giáo – bởi hơi hướm thơ vừa nhuốm mùi thiền vừa vương tình trần. Thơ lục bát của Phạm Thiên Thư quá hay mà thơ 4 chữ (như bài Ngày xưa Hoàng Thị) lại cũng tuyệt… Chẳng thế mà tập thơ Đoạn trường vô thanh (hậu Kiều) của ông được trao Giải nhất văn chương – thể loại trường ca (Sài Gòn – năm 1973)… Rồi người ta đoán già, đoán non cô Hoàng Thị Ngọ là ai mà có sức hấp dẫn đến thế, khiến cho người thơ đã nương cửa Phật vẫn phải vướng mùi tục lụy?
“Anh tìm theo Ngọ…”
Phải đến 40 năm sau tôi mới có dịp diện kiến nhà thơ Phạm Thiên Thư, khác với những gì tôi mường tượng: tác giả Ngày xưa Hoàng Thị không mang dáng dấp thư sinh, nho nhã mà đẹp như một… “lão ngoan đồng”. Ông hiện là chủ quán cà phê Hoa Vàng ở cư xá Bắc Hải (Q.10, TP.HCM), tên quán chắc là để nhắc nhớ đến ca khúc ‘Đưa em tìm động hoa vàng’ nổi tiếng một thời?
Câu đầu tiên ông “chào” tôi là một câu lục bát: “Dễ gì được một vần thơ/Mà nghe nghiệp chướng, lại ngờ tiền oan”.
Rồi ông kể về Ngọ: “Rất đơn giản, tôi tuổi Thìn (1940), còn cô ấy tuổi Ngọ (1942) cho nên được bố mẹ đặt luôn tên là Ngọ. Cách nhau 2 tuổi nhưng học cùng lớp đệ tam (lớp 10 bây giờ) ở trường Trung học Văn Lang (khu Tân Định). Ngọ có dáng người thanh mảnh với mái tóc dài thả ngang vai. Mỗi khi xếp hàng vào lớp, cô ấy đứng đầu hàng bên nữ, tôi đứng cuối hàng bên nam, tha hồ ngắm… Vào lớp, cô ấy ngồi bàn đầu, tôi bàn cuối. Ngọ học rất giỏi, còn tôi chỉ giỏi… đánh lộn (gia đình tôi vốn có truyền thống võ thuật). Có lần thầy giáo gọi tôi lên trả bài, tôi không thuộc nhưng thay vì lên tận bàn thầy giáo trên bục giảng, tôi chỉ đi đến ngang chỗ Ngọ ngồi thì dừng lại. Ngọ biết ý, mở cuốn tập ra cho tôi… liếc, đọc vanh vách!
Nhà tôi ở đường Trần Khát Chân, nhà Ngọ ở Trần Quang Khải, cũng cùng khu Tân Định nên đi về chung đường. Mỗi lần tan trường, cô ấy ôm cặp đi trước, tôi lẽo đẽo theo sau. Tóc Ngọ bay bay trên đôi vai gầy nhỏ nhắn. Có những hôm trời mưa lất phất, cô ấy đưa cặp lên che ngang đầu. Tôi thấy thương quá, muốn làm một cử chỉ gì đó như là để chở che nhưng… thở mạnh còn không dám, nói chi là…
Đậu tú tài xong tôi vào Đại học Vạn Hạnh”…
“Tại sao ông lại trở thành tu sĩ Phật giáo?”.
“À, như đã nói, gia đình tôi vốn có truyền thống con nhà võ, từng lập “Học hội Hồ Quý Ly” quy tụ cả trăm người, khiến chính quyền miền Nam lúc ấy nghi ngờ, phải giải tán. Năm 1964 tôi “trôi dạt” vào “ăn cơm chay” ở các chùa: Vạn Thọ (Q.1), Kỳ Quang, Bà Đầm (Q.Phú Nhuận), rồi Đại học Vạn Hạnh… Cho dù đã nương thân vào cửa chùa nhưng mỗi lần đi ngang qua con đường cũ, hình ảnh cô học trò ôm cặp, tóc dài bay bay trong gió vẫn thấp thoáng đâu đây… Và rồi những tứ thơ tràn về: “Em tan trường về/Đường mưa nho nhỏ/Chim non giấu mỏ/Dưới cội hoa vàng/Bước em thênh thang/Áo tà nguyệt bạch/Ôm nghiêng cặp sách/Vai nhỏ tóc dài… Em tan trường về/Cuối đường mây đỏ/Anh tìm theo Ngọ/Dáng lau lách buồn… Em tan trường về/Đường mưa nho nhỏ/Trao vội chùm hoa/Ép vào cuối vở/Thương ơi vạn thuở… Ôi mối tình đầu/Như đi trên cát/Bước nhẹ mà sâu… Mười năm rồi Ngọ/Tình cờ qua đây/Cây xưa vẫn gầy/Phơi nghiêng dáng đỏ/Áo em ngày nọ/Phai nhạt mấy màu/Chân theo tìm nhau/Còn là vang vọng… Dáng ai nho nhỏ/Trong cõi xa vời/Tình ơi… Tình ơi!”…
“Tại sao nhạc sĩ Phạm Duy biết thơ ông để phổ nhạc?”.
“Là thế này, năm 1968, tôi có ra tập thơ đượm mùi thiền Phật giáo, in rất ít, chỉ để tặng bạn bè. Cụ Nguyễn Đức Quỳnh (nhà văn) đọc thấy thích mới giới thiệu với nhạc sĩ Phạm Duy, và nhạc sĩ đã phổ 10 bài đạo ca của tôi. Đó là cái duyên để đến năm 1971, nhạc sĩ Phạm Duy lại phổ nhạc bài Ngày xưa Hoàng Thị. Lạ một điều là bà xã tôi bây giờ lại rất giống Ngọ, có thể nói là một chín, một mười”.
Người viết tuy ngồi trong (động) Hoa Vàng nhưng tiếc ngẩn ngơ vì không được may mắn diện kiến nữ chủ nhân để ít ra cũng có thể hình dung được một nhan sắc thuở nào…
Đây là bài viết của tác giả Trác Như gởi cho [dongnhacxua.com] và thể hiện ý riêng của tác giả về nhạc phẩm bất hủ ‘Thiên Thai’ của nhạc sỹ Văn Cao. Xin cảm ơn sự quý mến của Trác Như dành cho [dongnhacxua.com] và xin mạn phép đăng lại để bạn đọc gần xa có thêm thông tin thú vị.
TIẾNG CA TRÙ TRÊN SÔNG HƯƠNG (Nguồn: tác giả Trác Như gởi cho [dongnhacxua.com])
Năm 1940, một chàng trai Hải Phòng lưu lạc đến tận sông Hương ở Huế để rồi thai nghén một ý nhạc kéo dài cả mấy năm. Sông và núi ở Huế đã khiến Văn Cao mơ đến chốn tiên cảnh đã từng khiến hai chàng Lưu và Nguyễn quên cả lối về. Nguồn cảm hứng trên tưởng có lúc đã phôi pha nhưng không ngờ lại trổi dậy khi người thanh niên 18 tuổi trở về Hải Phòng và bất chợt nghe được điệu ca trù trên dòng sông Phi Liệt năm 1941. (1)
Ca khúc Thiên Thai chính thức được nhà xuất bản Tinh Hoa phát hành ở Huế năm 1944 (2). Tuy sông Hương là nguồn sữa nuôi nấng giấc mộng bồng lai, nhạc sĩ đã chọn điển tích Trung Hoa làm bối cảnh cho bài hát, và sau cùng thì thanh âm phong phú và lả lơi của các ả đào đất Cảng đã giúp cảm xúc ông chín mùi để hoàn tất tác phẩm cổ điển này.
Chưa hề được nghe giọng ca của Kim Tiêu, người nghệ sĩ đầu tiên trình bày bản này thuở chiến tranh chống Pháp, chỉ biết trong các thập niên 60 và 70, hai tiếng hát gắn bó với Thiên Thai nhất vẫn là Thái Thanh và Hà Thanh. Tiếng hát Thái Thanh là một cọ vẽ có khả năng diễn đạt đủ loại ánh sáng và gam màu khác nhau. Những chấn động trong cảm xúc mà Thái Thanh mang đến cho Thiên Thai rất tương xứng với sự đa dạng và tinh tế của nhạc phẩm này, như Phạm Duy đã từng phân tích: “Văn Cao đã chuyển nét nhạc một cách rất tài tình, dùng những nốt-bán-cung để di chuyển rất nhanh chóng câu hát đi từ một chủ âm mineure này qua chủ âm mineure khác, cho ta thấy được rất nhiều mầu sắc của khung cảnh thần tiên này”. (2)
Hà Thanh thì ngược lại: trầm lặng và nhẹ nhàng hơn. Hà Thanh cho thính giả cơ hội để có những suy diễn riêng tư. Khác với bức tranh lộng lẫy mà tiếng hát Thái Thanh tạo ra, phần trình bày của Hà Thanh dường như có thể dùng để minh họa cho quan điểm của Nguyễn Đình Toàn: “Cái thế giới thần thoại của cổ tích không phải chỉ được Văn Cao minh họa bằng những màu sắc tuyệt vời mà hình như ông còn tạo dựng bằng pha lê nữa. Mọi góc cạnh đều rắn, chắc. Màu sắc của nó còn có thể biến đổi tùy thuộc chủ quan của người thưởng ngoạn nữa.” (3) Cái đẹp của thiên thai trong trường hợp này là cái đẹp của vô tướng và tại đây hạnh phúc chính là sự vắng mặt của những ràng buộc và bi lụy. Một thế giới không nhơ không sạch, không có bắt đầu và cũng chẳng có kết đoạn.
Nếu như Thái Thanh là tiếng ca trù đã giúp Văn Cao cụ thể hóa Thiên Thai thì Hà Thanh, tiếng hát đã được nhà văn Mai Thảo gọi là “tiếng hát trên trời cao” (4), là dòng Hương luôn hiện hữu để lặng lẽ nuôi sống cái cảm hứng thuở ban đầu của người nhạc sĩ này. Ca khúc Thiên Thai chính là kết quả của những tiếng ca trù trên dòng Hương Giang vậy.
Tuy đã hơn một lần ghé qua xứ Huế, tôi chưa từng đặt chân đến Hải Phòng, quê hương của Văn Cao, người đã từng gọi mình là “người sông Ngự”. Tuy vậy, tôi có cảm giác Hải Phòng là những gì đối ngược với Huế. Một bên nồng cháy, một bên thơ thẩn. Một bên reo hò bên sóng biển, một bên ngồi nhìn dòng sông trôi lững lờ. Một bên đỏ rực phượng vỹ, một bên thầm thì những rặng thùy dương. Mỗi bên là một nửa của Thiên Thai, nuôi nấng cho nhau những giấc mộng của “ngày tháng chưa tàn qua một lần”.
(1) “Văn Cao – Người đi dọc biển” – Nguyễn Thụy Kha
Ngược dòng thời gian về với nhạc xưa, sẽ là thiếu sót nếu chúng ta không nhắc đến những giọng ca lẫy lừng đã để lại nhiều dấu ấn khó phai mờ. Hôm nay [dongnhacxua.com] xin đăng lại bài viết của nhà báo Nguyễn Minh viết trên Thể Thao & Văn Hóa về hai chị em Thái Hằng (tức người vợ hiền của nhạc sỹ Phạm Duy) và Thái Thanh (tức thân mẫu của danh ca Ý Lan).
NHỮNG TIẾNG HÁT MỘT THƯỞ: THÁI HẰNG LÀ CHỊ, EM LÀ THÁI THANH (Nguồn: Thể Thao & Văn Hóa)
Gần đây có thông tin nữ danh ca Thái Thanh mắc căn bệnh Alzheimer (một chứng mất trí phổ biến) và tình trạng sức khỏe đang ngày một yếu đi. Ở tuổi gần 80, dù đang chạy đua với quỹ thời gian mỗi lúc một cạn dần nhưng những ảnh hưởng từ giọng hát của bà còn rất lớn, Thái Thanh vẫn luôn được xem là một trong những diva hàng đầu của tân nhạc Việt Nam.
Hai nàng Kiều ở phố Neo
Thái Hằng, Thái Thanh là con gái của ông bà Phạm Đình Phụng. Thái Hằng (nghệ danh được nhà thơ Thế Lữ đặt) là con gái đầu lòng, tên thật là Phạm Thị Quang Thái. Còn Thái Thanh là con gái út trong nhà, tên thật là Phạm Băng Thanh. Việc anh chị em Thái Hằng đều trở thành những nghệ sĩ tên tuổi không phải là một điều lạ vì bởi song thân của họ là hai người rất sành nhạc cổ: thân phụ là một nghệ sĩ chơi đàn nguyệt có tiếng tăm, trong khi thân mẫu thì đánh đàn tranh, đàn tỳ bà, hát ả đào nổi tiếng ở đất Bắc. Bởi vậy dường như máu văn nghệ, mà cụ thể là máu âm nhạc hầu như đã có sẵn trong huyết quản của tất cả anh em Thái Hằng.
Năm 1949 gia đình ông bà Phạm Đình Phụng tản cư về khu chợ Neo (Thanh Hóa) lúc bấy giờ thuộc Liên khu IV. Tại đây, gia đình ông đã mở tiệm phở Thăng Long và chỗ này nhanh chóng trở thành chỗ tụ họp đông đảo của các văn nghệ sĩ đi theo kháng chiến thời đó, nhất là khi tiệm phở lại có bóng dáng mấy cô Kiều là hai chị em mà sau này sẽ nổi tiếng dưới hai tên hiệu Thái Hằng và Thái Thanh. Tại đây, nhạc sĩ Canh Thân làm những bài nhưCô hàng cà phê và nhạc sĩ Phạm Duy, lúc bấy giờ đang còn là một ca sĩ nổi tiếng, thường qua lại ve vãn cô chủ tiệm Thái Hằng, người có đôi mắt buồn muôn thuở.
Cũng từ đây ban Hợp ca Thăng Long ra đời với thành phần phần ban đầu gồm: Thái Hằng, Thái Thanh, Hoài Trung (tức Phạm Đình Viêm), Hoài Bắc (Phạm Đình Chương), sau đó có thêm Phạm Duy và Khánh Ngọc. Sau này, khi vào miền Nam, đây là ban hợp ca được xem là nổi tiếng nhất với trụ cột là tiếng hát Thái Hằng – Thái Thanh. Cần phải nói thêm rằng ở miền Nam trước đó, ngoài ban Hợp ca Thăng Long thì nổi nhất là tam ca Ngọc Lê Hà (Hoàng Lê và Khánh Ngọc là hai chị em ruột). Sau họ còn có thêm đôi song ca Tâm Vấn và Thịnh Thái. Nhưng dưới ánh đèn sân khấu, không ai sáng hơn Thái Hằng – Thái Thanh, những tiết mục của họ đều là những tiết mục ăn khách nhất, nhiều người đánh giá tiếng hát của hai chị em nhà họ Phạm là song phẩm, Thái Hằng kiều diễm, đoan trang còn Thái Thanh sắc sảo duyên dáng, chưa kể kỹ thuật thanh nhạc gần như là vô song và diễn ý tình bản nhạc trên sân khấu lại vô cùng quyến rũ.
Ban Hợp ca Thăng Long chuyên hát những ca khúc vui tươi: Ngựa phi đường xa (Lê Yên), Sáng rừng, Hò leo núi(Phạm Đình Chương)… với cách hòa thanh khi ấy như một làn gió tiên phong, mở đường cho phong cách hát nhiều bè, hát đuổi cho nhiều ban hợp ca sau này trên sân khấu ca nhạc. Hoài Bắc – Phạm Đình Chương còn là người viết nhiều ca khúc bất hủ: trường ca Hội trùng dương, Ly rượu mừng… Họ cũng là ban hợp ca trình bày ca khúc sử thi đồ sộ Hòn vọng phu của nhạc sĩ Lê Thương với lối trình bày rất lạ thời ấy: xen trên nền nhạc, giọng diễn ngâm của Thái Hằng, Thái Thanh đưa Chinh phụ ngâm khúc vào, biến trường ca bi tráng của Lê Thương trở nên gần với thể loại nhạc kịch. Hai chị em Thái Hằng – Thái Thanh còn được thính giả Đài phát thanh Sài Gòn rất hâm mộ khi ngâm thơ trong chương trình Tao Đàn do thi sĩ Đinh Hùng phụ trách cũng như những bản song ca mà giờ này nhiều người vẫn còn nhớ đến.
Tuy vậy đến đầu thập niên 1970 thì Thái Hằng và Phạm Duy tách khỏi Hợp ca Thăng Long và lúc này ban hợp ca cũng tan rã, các nghệ sĩ trong nhóm đi theo những hướng riêng trên con đường âm nhạc của mình.
Thái Hằng – Tiếng hát thùy dương
Giọng hát của Thái Hằng từng được một nhà văn miền Nam mô tả: “Dẻo mềm như nhánh thùy dương, dù có bị gió lay động nhưng nó không lả lơi đùa cợt cùng gió như loại nhược lan, lệ liễu, cỏ bồng cỏ bồ” và quan trọng hơn là “ánh sáng trong giọng hát của chị là ánh trăng mát mẻ dịu hiền chứ không phải là ánh sáng bình minh rực rỡ huy hoàng trong giọng hát Thái Thanh”.
Thái Hằng được nhớ rất nhiều qua những ca khúc như Gánh lúa, Bà mẹ quê, Tình hoài hương hay Về miền Trung, Tiếng hát Thiên Thai, Dòng sông xanh (lời Việt của Phạm Duy)… Giọng hát của bà được đánh giá đạt đến mức điêu luyện hiếm có, chưa ai vượt qua được.
Suốt nhiều thập niên trước năm 1975, Thái Hằng còn là giọng ngâm thơ được yêu mến trong các chương trình thơ văn và thoại kịch trên Đài phát thanh Sài Gòn. Cho đến nay giới thưởng ngoạn âm nhạc Việt Nam còn nhớ giọng ca của bà qua những bản Tiếng sáo thiên thai, Tình hoài hương, Tình ca… của Phạm Duy.
Ngoài vai trò một người mẹ của 8 người con, bà còn là người vợ mà nhạc sĩ Phạm Duy vô cùng kính trọng. Trong suốt nửa thế kỷ hôn nhân với Phạm Duy, dù vẫn biết ông là người đào hoa bậc nhất bà vẫn chưa bao giờ có một lời nói nặng nào. Nhạc sĩ Phạm Duy ca ngợi bà là vị thần hộ mệnh của mình, ông viết: “Bà là sự nâng đỡ của tôi trong phen sa ngã, là sự thanh bình của tôi trong nhiều sóng gió, là sự thành công của tôi trong cơn vật vã với đời, là nụ cười của nàng Mona Lisa kín đáo”…
Ca sĩ Thái Hằng không được nhắc đến nhiều bằng cô em Thái Thanh nhưng vẫn luôn nhận được sự kính trọng bằng giọng hát phi thường của mình. Sau năm 1975 bà vẫn đi hát nhưng chỉ là để giữ giọng phụ cho hai cô con gái là Thái Hiền và Thái Thảo hát chính. Và khi ca sĩ Duy Quang định cư hẳn ở Mỹ thì Thái Hằng hoàn toàn lui vào hậu trường và không bao giờ đi hát nữa.
Bà mất năm 1999 vì ung thư phổi. Thời gian đó, khi hay tin vợ mắc nan y, nhạc sĩ Phạm Duy đã bỏ tất cả mọi dự án âm nhạc để ở bên cạnh bà những ngày cuối đời. Ông nói rằng trong suốt cuộc hôn nhân này ông luôn chịu ơn bà và cho dù cuộc đời ông nhiều trắc trở nhưng tình nghĩa vợ chồng chưa bao giờ sóng gió, ông chưa bao giờ vắng nhà qua đêm và Thái Hằng chưa hề phải xa chồng, dù chỉ một ngày.
Thái Thanh – Tiếng hát trên trời
Nhà văn Thụy Khuê viết rằng: “Thái Thanh là một danh hiệu, nhưng như có ý nghĩa tiền định: bầu-trời-xanh-tiếng-hát. Hay tiếng hát xanh thắm màu trời. Tiếng hát long lanh đáy nước trong thơ Nguyễn Du, lơ lửng trời xanh ngắt trong vòm thu Yên Ðổ, tiếng hát sâu chót vót dưới đáy Tràng Giang Huy Cận, hay đẫm sương trăng, ngừng lưng trời trong không gian Xuân Diệu, tiếng hát cao như thông vút, buồn như liễu đến từ cõi thiên thai nào đó trong mộng tưởng Thế Lữ”. Quả thực trong gia đình họ Phạm, Thái Thanh là nữ danh ca có tiếng tăm và để lại nhiều ảnh hưởng nhất, bà được xem là diva số một của làng nhạc Sài Gòn thời ấy.
Tên tuổi Thái Thanh lẫy lừng trên khắp các chương trình ca nhạc truyền thanh cũng như truyền hình, từ hãng đĩa nổi tiếng cho đến các phòng trà tiếng tăm ở Sài Gòn. Nói về “ngôi vị” của Thái Thanh trong giới ca sĩ Sài Gòn trước 1975 có lẽ không ai chính xác bằng người trong giới, đặc biệt là một trong các danh ca hàng đầu thời ấy, Lệ Thu. Năm 1970, nhân chuyến tham dự khai mạc Hội chợ Osaka, Nhật Bản, Lệ Thu đã trả lời báo chí rằng: “Nếu chị Thái Thanh có mặt ở đây và hát, mọi người sẽ cúi đầu khâm phục”. Được xem là đắt giá nhất trong giới ca sĩ ngày đó, Lệ Thu chỉ chấp nhận “nghiêng đầu” trước Thái Thanh.
Những gì thuộc về Thái Thanh rất khó bị lặp lại bởi những ca khúc mà bà ngân lên, kể cả những bài đã từng có người hát trước đó, như thể bà khoác lên cho chúng một chiếc áo mới, một cuộc đời mới. Nhiều người vẫn không thể thích ai khác ngoài Thái Thanh qua những ca khúc như Chuyện tình buồn, Kỷ vật cho em, Ngày xưa Hoàng Thị, Đêm màu hồng, Ru ta ngậm ngùi hay những sáng tác của Phạm Đình Chương và đặc biệt, là những nhạc phẩm của Phạm Duy. Ngay từ những ngày đầu tiên cất tiếng hát (khoảng 13, 14 tuổi) trong vùng hậu phương của thời toàn dân kháng chiến chống Pháp, Thái Thanh cũng đã hát nhiều nhất là nhạc của Phạm Duy. Sau khi hồi cư về Hà Nội rồi di cư vào Sài Gòn (khoảng giữa năm 1950) cùng gia đình, Thái Thanh bắt đầu nổi tiếng như cồn khắp Trung – Nam – Bắc qua những sáng tác của người nhạc sĩ đa tài này.
Nhạc sĩ Phạm Duy cho rằng: “Nếu không có Thái Thanh thì nhạc Phạm Duy cũng không được hay và nổi lên được như vậy”. Ông nhận xét: “Thái Thanh là giọng ca duy nhất hát nổi hai cao độ chạy dài tới 2 bát âm trong nhạc của tôi. Không những thế, cô có giọng hát rất truyền cảm”. Cũng như Khánh Ly làm nổi bật tên tuổi Trịnh Công Sơn, Thái Thanh đã đóng góp rất nhiều trong việc đưa nhạc Phạm Duy lên ngôi vị cao nhất tại Sài Gòn trước đây.
Lập gia đình với tài tử điện ảnh Lê Quỳnh năm 1956 và cuộc hôn nhân này tồn tại trong 9 năm, trong khoảng thời gian ấy bà sinh được 5 người con. Sau khi sinh con, Thái Thanh vẫn tiếp tục ca hát và ngày càng trở thành một đệ nhất danh ca của nền tân nhạc Việt Nam. Bà giữ cho mình một nhịp độ hoạt động rất quy tắc, như một vận động viên điền kinh, bền bỉ và dai sức. Bà luôn có trách nhiệm và rất coi trọng nghề nghiệp. Chính vì lẽ đó mà suốt một thời gian bà không cho phép con mình đến với nghiệp hát vì bà sợ đi trên con đường này phải trả giá và kiên trung ghê gớm. Phải đến khi qua Mỹ bà mới cho phép ái nữ Ý Lan, khi đã gần 30 tuổi, được đi trên con đường âm nhạc giống mình.
Thái Thanh sang Mỹ năm 1985 và năm 1995 bà đi hát lại, ở tuổi 61. Tuy vậy, đến năm 2002 thì bà quyết định kết thúc sự nghiệp. Đây đó cũng vài lần Thái Thanh đi hát nhưng chỉ mang tính chất giao lưu còn thì bà gần như không còn hoạt động âm nhạc nữa. Trong suốt sự nghiệp của mình, Thái Thanh gần như là ca sĩ có số lượng đĩa hát đồ sộ (với rất nhiều hãng đĩa lớn nhỏ) và số ca khúc mà bà thể hiện cũng đã hơn 500 bài và trong đó rất nhiều bài vẫn còn được yêu mến. Những cuốn băng cối Thái Thanh luôn là gạch đầu dòng đầu tiên của những người mê sưu tầm đồ cổ.
Trong phần hai, bối cảnh là dòng sông Hương hiền hòa uốn quanh cố đô Huế. Ảnh bìa: vietstamp.net
Nghe Tiếng Sông Hương do Ban Hợp Ca Thăng Long (với giọng ca chính Thái Thanh và sự góp giọng của chính nhạc sỹ Phạm Đình Chương, tức ca sỹ Hoài Bắc thưở nào)
Nét nhạc tài hoa của nhạc sỹ Phạm Đình Chương đã để lại cho tân nhạc Việt Nam một bản trường ca đặc sắc Hội Trùng Dương lấy cảm hứng từ 3 con sông lớn tượng trưng cho 3 miền Bắc, Trung, Nam. Trong phần một, bối cảnh là dòng sông Hồng hình thành nên đồng bằng Bắc Bộ. Ảnh bìa: vietstamp.net
Nghe Tiếng Sông Hồng do Ban Hợp Ca Thăng Long (với giọng ca chính Thái Thanh và sự góp giọng của chính nhạc sỹ Phạm Đình Chương, tức ca sỹ Hoài Bắc thưở nào)
Trong ký ức của DòngNhạcXưa, những người sinh sau 1975, qua lời kể của ba mẹ kể về những năm tháng sống ở Pleiku thì Pleiku là thành phố của chiến tranh với căn cứ quân sự, khu gia binh và đủ mọi thành phần lính tráng. Rồi khi chúng tôi lớn lên, các anh chị hát cho nghe giai điệu và ca từ bất hủ của bản ‘Còn chút gì để nhớ’ của nhạc sỹ Phạm Duy để mãi sau này mới biết là phổ thơ Vũ Hữu Định.
Vũ Hữu Định (1942-1981), tên thật Lê Quang Trung. Tên tuổi của ông gắn liền với bài thơ Còn chút gì để nhớ, được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc thành ca khúc cùng tên.
Lê Quang Trung sinh năm 1942 tại Thừa Thiên – Huế trong 1 gia đình nghèo. Ông từng sống qua nhiều nơi ở Tây Nguyên, Sài Gòn, lập gia đình và định cư ở Đà Nẵng. Ông làm thơ đăng báo từ khoảng thập niên 1960, với bút danh Hàn Phong Lệ, về sau đổi thành Vũ Hữu Định. Tên Vũ Hữu Định bắt đầu phổ biến từ khi bài thơ Còn chút gì để nhớ của ông được Phạm Duy đem phổ thành nhạc vào năm 1970.
Vũ Hữu Định vào đời sớm, lập gia đình sớm và nghèo nàn trong suốt quãng đời ngắn ngủi của mình. Ngoài làm thơ, ông từng làm cán bộ xây dựng nông thôn ở Đà Nẵng. Ông từng trốn quân dịch nhưng rồi bị bắt lại.
Ông được biết đến là một người mê rượu, tuy nghèo khó nhưng có máu giang hồ, tính tình phóng khoáng.
Ngày 3 tháng 4 năm 1981, sau 1 chầu nhậu với bạn bè, ông bị té cầu thang (có thông tin cho rằng bị té lầu) và qua đời, hưởng dương 40 tuổi.
BÀI VIẾT CỦA NHÀ THƠ NGUYỄN ĐÌNH TOÀN VỀ NGUYỄN HỮU ĐỊNH VÀ BÀI THƠ ‘CÒN MỘT CHÚT GÌ ĐỂ NHỚ’
(Nguồn: XuQuang.com)
Rất nhiều người yêu bài thơ Còn Một Chút Gì Để Nhớ của Vũ Hữu Định, vì được nghe qua nhạc Phạm Duy. Nghe rồi mới đọc.
Nhiều khi cũng không phải là đọc nữa. Người ta nghe và thuộc lời ca của bản nhạc, từ đó nhớ lại rồi khám phá ra cái hay của bài thơ, cái hay của từng chữ trong bài thơ.
Trước khi có bài thơ của Vũ Hữu Định, không biết có bao nhiêu người đã ước ao được đến Pleiku. Nhưng sau khi bài thơ được phổ nhạc và hát lên, số người muốn được đặt chân, được nhìn thấy tận mắt cái phố núi ấy, không thua gì số người muốn nhìn thấy Thôn Vỹ Dạ vì đọc thơ Hàn Mặc Tử.
Có lẽ người nào đó đã nói đúng khi cho rằng, một thành phố dù đẹp đến đâu, nếu chưa được đưa vào văn thơ, âm nhạc, hội họa… cũng kể như nó chưa có linh hồn vậy.
Và một tác phẩm hiện hữu hay tồn tại được hình như cũng có những cơ duyên của nó.
Phạm Duy cho biết, ông gặp Vũ Hữu Định ở Pleiku trong một chuyến đi tìm cảm hứng cho cuộc sống của riêng ông và nhất là tìm hiểu tâm trạng những nhà thơ trẻ, đại đa số khi ấy đang đi lính hay đang trốn lính.
Phạm Duy cho biết ông đã chọn và phổ nhạc bài thơ của Vũ Hữu Định không thêm bớt một chữ nào. Ông cũng giữ nguyên vẹn cấu trúc [structure] cũng như vận tiết [prosodie] của bài thơ. Ông chỉ dùng một thanh âm có bán cung của dân ca Jarai hay Bahmar để gợi cái không khí cao nguyên và một chuyển giọng [tonalité] ở đoạn cuối để cho bài ca có thêm màu sắc.
Ca khúc Còn Một Chút Gì Để Nhớ thành công thế nào mọi người đã biết. Có thể nói, không một ca sĩ tên tuổi nào của chúng ta khi ấy lại không có lần trình bầy bài hát này.
Và, nghe rồi, người ta hẳn cũng có lúc tự hỏi, nếu không có nhạc của Phạm Duy, liệu bài thơ có thể phổ biến mau chóng và rộng rãi như vậy chăng?
Câu hỏi ấy, dù có bao nhiêu câu trả lời cũng không ích gì.
Ta có một bài thơ hay rồi lại có một bài hát hay, đó chưa đủ là một điều thích thú sao?
Thắc mắc nữa mà chi ?
Đọc bạn bè và những người quen biết kể lại cách sống, những cuộc gập gỡ của họ với Vũ Hữu Định, người ta luôn cảm thấy một nỗi vui buồn lẫn lộn, một cái gì đó hình như quá đà, làm rợn người.
Chỉ sau này, trong một bữa nhậu trên sân trời một căn gác với bạn bè, Vũ Hữu Định cầm ly rượu của mình, không biết say tới cỡ nào, bước ra khỏi hàng lan can của cái sân trời, rớt xuống đất và chết tại chỗ, người ta mới biết, hình như cái chết kinh khủng của Vũ Hữu Định đã được báo trước?
Đinh Trầm Ca hiện còn ở trong nước, đã viết về Vũ Hữu Định [trên báo Khởi Hành số 96, tháng 10, 2004] như sau :
“ Tôi chưa được lần nào diện kiến chị Vân, vợ anh. Nhưng qua Đoàn Huy Giao kể, tôi rất kính trọng chị ấy. Tôi cảm nhận chị ngang hàng với bà Tú Xương. Sanh tiền Vũ Hữu Định
chẳng làm được gì cho gia đình. Anh như một cuồng sĩ lang thang, phiêu bạt. Nghe nói chị vất vả lắm để nuôi mẹ anh, một bà mẹ đã ‘lẫn’ và tật bệnh cùng một đàn con. Ngày xưa tôi không ưa anh lắm vì những điều này. Tôi vốn khắc nghiệt. Tôi không thích những người vô trách nhiệm, thiếu bổn phận… Hai mươi năm nay, tôi lạïi giống anh lúc trước, tôi mới hiểu được và thương anh hơn! Khi tôi hiểu được thì không còn Định, để mời
một chén rượu cảm thông. Tôi không còn nghĩ anh là người ham danh, hay nhẹ nhàng hơn, có chút ưu ái hơn, như các bạn tôi rằng, anh là người say đắm thơ rượu. Tôi biết rằng những tháng năm đen tối, đời anh không nhờ thơ, rượu thì con người anh sẽ ra sao? Và cuối cùng thơ và rượu đã cứu rỗi anh.
Cũng có khi nào anh trở lại
Mai đây, mốt nọ biết đâu chừng
Và có một lời anh sẽ nói
Giữ giùm nhau một chút hồn chung
Tới đây thấy lúa vàng đang chín
Đứng lại nhìn thôn xa khói bay
Không biết nhà ai đâu nấu rượu
Thoang thoảng hương mùa đã muốn say
Anh đã mất 17 năm tròn. Nhưng anh cũng vừa trở lại với chúng ta bằng tập thơ ‘Còn Chút Gì Để Nhớ’. Trong thơ anh, tôi đã nhìn thấy rõ anh hơn những ngày tháng giang hồ lang bạt. Tôi thấy anh quằn quại khổ đau. Tôi thấy cả tấm lòng anh đầy ắp yêu thương gia đình, vợ con. Thơ anh nhân ái, cao cả mà hồn anh thì ray rứt, ngậm ngùi”. Nhân ngày giỗ đầu Vũ Hữu Định, A Khuê đã có một bài thơ khóc bạn và Trần Quang Lộc một người bạn khác của Vũ Hữu Định, đã phổ nhạc thành ca khúc Mộ Trăng.
Đêm không trăng mổ ngực chơi
Giữa tuyệt cùng
Sương hoa đỏ
Linh hồn linh hồn ơi
Mệt bước chân vu
Đi ngất ngất đi lặng lẽ trong đêm dài
Đêm không trăng
Của phố núi cao
Em Pleiku má đỏ môi hồng
Có thật đã ngủ yên
Trên ngọn núi cao kia
Trong bóng tối ôi lạnh quá đôi chân trần
Độc giả, thính giả, được đọc, được nghe một bài thơ, một bài hát hay, thường thắc mắc tự hỏi, không biết những sáng tác khác của các tác gỉa ấy ra sao?
Đó cũng là điều người ta muốn biết về Vũ Hữu Định.
Trước 75 Vũ Hữu Định có nhiều thơ đăng trên báo chí ở Sài Gòn, nhưng chưa có một tập thơ nào được in thành sách.
Và cũng có thể nói rằng, ngoài bài thơ Còn Một Chút Gì Để Nhớ, khôngthấy một bài thơ nào khác của Vũ Hữu Định được độc giả nhắc nhở, truyền tụng.
Dù thế nào, chỉ căn cứ vào những bài thơ đăng báo để nói về thơ của một người, không thể tránh được thiếu sót.
Nhất là trường hợp Vũ Hữu Định.
Sau tập Còn Một Chút Gì Để Nhớ vừa được bằng hữu của ông ở trong nước góp công sức xuất bản, người ta mới được biết Vũ Hữu Định còn nhiều tập thơ khác nữa, chưa biết lúc nào mới in ra được.
Dưới đây là bài thơ Đứng Giữa Đồng Không trích trong tập Còn Một Chút Gì Để Nhớ của Vũ Hữu Định :
một bầy sáo nhỏ qua sông
một em tôi đã cầm lòng đi xa
như con sông nhỏ thật thà
sớm hiu hắt tạnh, chiều sa mưa nguồn
một bầy sáo đã đi luôn
một em tôi đã để buồn lại đây
con chim quyên đã lạc bầy
xuống sông vọc nước đợi ngày xế ngang
một bầy sáo nhỏ bay hoang
một em tôi đã bỏ làng đi xa
tôi ngu ngơ giữa chiều tà
em đi để lại mình ta giữa đồng