Một trong những nhạc sỹ để lại dấu ấn sâu đậm nhất cho nền nhạc của miền Bắc nước ta là nhạc sỹ Đỗ Nhuận. DòngNhạcXưa xin giới thiệu đến người yêu nhạc đôi nét về nhà nhạc sỹ gạo cội của chúng ta.
Đỗ Nhuận (1922 – 1991) là một nhạc sĩ Việt Nam. Ông là Tổng thư ký đầu tiên của Hội nhạc sĩ Việt Nam[1] khóa I và II từ 1958 đến 1983, một trong những nhạc sĩ tiên phong của âm nhạc cách mạng. Đỗ Nhuận còn là nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên viết opera với vở Cô Sao, cũng là tác giả của bản “Du kích sông Thao” nổi tiếng.
Nhạc sĩ Văn Chung (1914 – 1984) thuộc thế hệ tiên phong của nền tân nhạc Việt Nam, ông là tác giả của những nhạc phẩm nổi tiếng Bóng ai qua thềm, Trên thuyền hoa…
Trong tân nhạc Việt Nam, có không nhiều nhạc sỹ cũng thành danh với vai trò ca sỹ. Trong số ấy, nếu xét về tuổi tác, chúng ta phải xếp ca nhạc sỹ Mạnh Phát vào bậc tiền bối. Ông sinh năm 1929 và mất năm 1973, tức thuộc lớp nhạc sỹ đầu tiên của nhạc Việt. DòngNhạcXưa xin giới thiệu đôi nét về cố ca nhạc sỹ Mạnh Phát.
Mạnh Phát (1929 – 1971) là một nhạc sĩ Việt Nam có những sáng tác thuộc nhiều thể loại. Ông là tác giả của nhiều bản nhạc bất hủ như Nỗi Buồn Gác Trọ, Ngày Xưa Anh Nói. Giai đoạn 1940, ông là ca sĩ hát cho hãng đĩa PK và Asia ở Sài Gòn. Giai đoạn 1949-1950 ông chuyển sang viết nhạc với bút danh Tiến Đạt một số bài như “Ai Về Quê Tôi”, “Trăng Sáng Trong Làng”. Sau này Mạnh Phát còn bút danh khác khi viết nhạc trữ tình là Thúc Đăng.
Nhắc đến Mạnh Phát, những người thuộc độ
tuổi trung niên đổ lại ít ai biết Mạnh Phát từng là một ca sĩ, không
phải là ca sĩ bình thường, mà là một ca sĩ nổi tiếng vào cuối thập niên
1940 tại Sài Gòn. Cùng thời, ông được biết đến như một trong hai đôi
uyên ương nổi tiếng, đó là Mạnh Phát – Minh Diệu và Châu Kỳ – Mộc Lan.
Nhạc
sĩ Văn Giảng (Thông Đạt) cho biết đôi chút về thân thế Mạnh Phát cũng
như cơ duyên đưa đến sự nổi tiếng của tác phẩm “Ai về sông Tương”, ca
khúc đã đưa tên tuổi của tác giả lẫn ca sĩ trình bày lên đỉnh cao danh
vọng: Văn Giảng biết Mạnh Phát vào cuối năm 1949, khi Mạnh Phát dẫn một
đoàn nghệ sĩ ra Huế biểu diễn và ghé thăm Văn Giảng. Mạnh Phát trạc tuổi
Văn Giảng và xuất thân từ miền Trung (không rõ tỉnh nào), vô định cư
Sài Gòn từ lâu. Lúc đó, Văn Giảng vừa sáng tác xong bài “Ai về sông
Tương” và hát chơi cho Mạnh Phát nghe, sau đó do thích quá, Mạnh Phát đã
hát trong chương trình nhạc yêu cầu của đài Pháp Á vào cuối năm 1949,
cuối năm đó tổng kết nhạc yêu cầu được yêu thích nhất, Mạnh Phát và “Ai
về sông Tương” đã giành hạng nhất. Tuy nhiên, sau này người ta đã sao
lãng với ca sĩ ăn khách nhất này và không ai còn lưu giữ giọng hát của
Mạnh Phát nữa.
DòngNhạcXưa xin bắt đầu giới thiệu loạt bài viết với nhiều tư liệu quý giá về sự thành và phát triển của nền tân nhạc Việt Nam của nhà báo – nhạc sỹ Nguyễn Thụy Kha. Trước ông, đã có nhiều nhà nghiên cứu âm nhạc đề cập đến chủ đề này. Trong cương vị một trang web mang tính tổng hợp và lưu trữ thông tin, chúng tôi không có điều kiện để kiểm chứng tất cả những gì các tác giả viết. Tuy nhiên, trong sự hiểu biết có giới hạn, DòngNhạcXưa sẽ chắt lọc và thẩm định để cố gắng cung cấp cho thế hệ trẻ dữ liệu hữu ích về dòng nhạc xưa. Một lần nữa, xin mạn phép sử dụng tài liệu và trân trọng những đóng góp của nhạc sỹ Nguyễn Thụy Kha.
Nhìn lại 100 năm âm nhạc Việt Nam, Báo Người Lao Động khởi đăng loạt bài của nhà báo – nhạc sĩ Nguyễn Thụy Kha về những nhạc sĩ tiêu biểu góp phần làm nên sự phát triển của nền âm nhạc Việt Nam, trên các số báo ra ngày thứ bảy hằng tuần
Bây giờ, khi ở thời điểm qua thế kỷ mới được 17 năm, nhìn lại 100 năm trước, cũng là thời điểm bước qua thế kỷ mới (thế kỷ XX) được 17 năm, thấy rõ một bước tiến xa của âm nhạc Việt Nam qua 100 năm.
Bảy đường xâm nhập của âm nhạc phương Tây
Ngày đó, vào năm 1917, tình hình âm nhạc của nước nhà ra sao? Khi ấy, người Pháp vào Việt Nam đã hơn nửa thế kỷ. Sự bành trướng mãnh liệt của âm nhạc phương Tây đi theo bước chân thực dân vào Việt Nam bằng 7 con đường khác nhau.
Con đường đầu tiên là xâm nhập dưới hình thức tôn giáo. Trong các trường học của nhà thờ Thiên Chúa giáo (còn gọi là trường dòng) đều có ban hát lễ và học trò đều được học nhạc. Bởi thế, nhiều thầy dòng người Việt Nam đã đặt lời Việt cho các bản thánh ca nước ngoài, sáng tác những bài ca tôn giáo bằng tiếng Việt như thầy dòng Ta đê Đỗ Văn Liu, linh mục Đoàn. Giáo dân còn được học kèn để lập nên dàn kèn của giáo xứ.
Thường thì giới mộ điệu biết đến Hoàng Giác qua “Mơ hoa” và “Ngày về”. Thế nhưng sự nghiệp sáng tác của nhà nhạc sỹ đa dạng về thể loại và phong phú về nội dung hơn nhiều. DòngNhạcXưa xin giới thiệu một bài viết của tác Nguyễn Trương Quý để quý vị xa gần có thêm tư liệu.
Hoàng Giác: Lòng nhủ thầm đàn đứt dây tơ
(Nguồn: bài viết của tác giả Nguyễn Trương Quý đăng trên tuoitre.vn ngày 2017-09-16)
TTO – Trong số những nhạc sĩ đóng góp nên đời sống phồn thịnh của âm nhạc Hà Nội giai đoạn 1945-1954, Hoàng Giác có một lượng bài hát được ấn hành và phổ biến đáng kể.
Khác với ấn tượng rằng ông chỉ có đôi bài Mơ hoa, Ngày về viết trong những năm
1944-1946 là dấu ấn, Hoàng Giác thực sự là một nhân vật năng động của dòng nhạc lãng mạn nối dài sau Cách mạng Tháng Tám.
Ông góp phần làm nên diện mạo của âm nhạc đô thị Hà Nội thời tạm chiếm.
Nhạc sỹ – ca sỹ Nguyễn Văn Tuyên, cánh chim đầu đàn của nền tân nhạc Việt Nam đã vĩnh viễn rời xa chúng ta ngày 30/04/2009, hưởng thọ 100 tuổi. Ngược dòng lịch sử, DòngNhạcXưa xin giới thiệu đôi nét về bậc tiền nhân.
“Năm 1936, tại Sài Gòn chỉ có một ca sĩ duy nhất – đó là tôi – Nguyễn Văn Tuyên. Khi ấy tôi đã 25 tuổi”
Khi biên tập những dòng hồi tưởng này, tôi nhẩm tính tuổi hiện giờ của chàng ca sĩ thời “tiền tân nhạc” và bỗng dưng cảm thấy có lỗi nếu không kịp tìm gặp nhân chứng lịch sử kỳ cựu nhất của nền nhạc mới. Chuyến công du cuối năm vào TPHCM dù quá sít sao thời gian vẫn phải bổ sung thêm một chương trình: Tìm gặp ca sĩ đầu tiên đồng thời là một trong những người đầu tiên sáng tác ca khúc Việt Nam, ông Nguyễn Văn Tuyên, 93 tuổi.
Trong khi hầu hết giới yêu nhạc đều trân trọng công nhận Nguyễn Văn Tuyên là nhạc sỹ / ca sỹ đầu tiên của nền tân nhạc Việt Nam thì câu chuyện đâu là bản tân nhạc đầu tiên vẫn còn nhiều điều cần làm rõ. Trong nỗ lực để gìn giữ tư liệu cho thế hệ sau, DòngNhạcXưa xin mạn phép giới thiệu một bài viết của nhạc sỹ Trần Quang Hải và Phạm Anh Dũng.
Nhạc sỹ Văn Cao sáng tác không nhiều nhưng những nhạc phẩm của ông hầu hết đều là tuyệt tác và vượt lên trên hết theo thiển ý của DòngNhạcXưa là bản “Thiên Thai”. Nhân dịp xuân về, xin giới thiệu đến người yêu nhạc xưa tác phẩm bất hủ này qua một bài viết của tác giả Trần Chí Phúc đăng trên sbtn.tv.
Thiên Thai – ca khúc thần tiên của nhạc sĩ Văn Cao
Mới đó mà đã 20 năm ngày chúng ta chia tay cây đại thụ của nền nhạc Việt: nhạc sỹ Văn Cao. Trong dòng cảm xúc đó, [dongnhacxua.com] xin giới thiệu một bài viết của nhà báo – nhạc sỹ Thụy Kha.
Kể từ ngày ông vĩnh viễn ra đi, mỗi khi nghe Quốc ca là cảm thấy ông vẫn ở đâu đây trong đời sống thường nhật của chúng ta
Đến bây giờ, tôi vẫn có cảm giác Văn Cao chưa hề xa. Ông vẫn ở đâu đây trong đời sống thường nhật của chúng ta. Đấy là mỗi sớm đầu tuần, nghe hát Quốc ca ở một nhiệm sở nào đó, dù ở Lạng Sơn hay ở Mũi Cà Mau. Đấy là những trận đấu bóng đá, trước giờ khai cuộc, Quốc ca Việt Nam lại vang lên. Đấy là khi các vận động viên Việt Nam đoạt huy chương vàng, ngay trong kỳ SEA Games mới đây. Cảm thấy bài Quốc ca Việt Nam căng đầy trong cơ thể “kình ngư” Ánh Viên khi cô khoác Quốc kỳ Việt Nam đứng trên bục cao nhất. Và quốc thiều Tổ quốc ngân nga…
Nhớ mãi nụ cười nhẹ nhõm
Vẫn như còn nguyên cái ngày cuối cùng khi tôi đưa nhạc sĩ Nguyễn Thiện Đạo đến thăm ông ở Bệnh viện Hữu Nghị – Hà Nội. Ông ngồi đấy, tóc trắng, râu trắng, tường trắng, nụ cười trắng và hoa sen trắng chưa nở. Ông thầm thì bên tai: “Đang còn một thằng “Giôn đen” nhưng nóng quá. Tuần sau sang mùa mưa. Sẽ uống…”. Nhưng không bao giờ còn cái ngày đầu tuần mới, uống chai mới nữa. Ngày thứ hai đầu tuần 10-7-1995 đã trở thành ngày ghi khắc mãi vào từng con tim người Việt Nam. Ngày Văn Cao chuyển cõi.
Trước đó 10 năm, một ngày cuối đông buốt giá năm 1985, tôi cùng Văn Cao thắp hương trước linh cữu Xuân Diệu, cũng đúng ở nơi ấy. Mười năm sau, cũng nơi ấy, căn gác hai 51 Trần Hưng Đạo (Hà Nội), nơi một thời cố vấn Vĩnh Thụy trải qua những ngày tháng độc lập đầu tiên của đất nước và nghe Quốc ca Việt Nam vang lên, cũng là nơi đưa tiễn tác giả bản Quốc ca hùng thiêng này về cõi xa xăm.
Tôi mãi mãi biết ơn giải thưởng thơ Báo Văn Nghệ năm 1982. Nhờ nó, nhờ bài thơ “Những giọt mưa đồng hành” đoạt giải B, Văn Cao đã ngỏ ý thông qua Đặng Đình Hưng muốn gặp tôi. Đấy là một hạnh ngộ mà cả đời tôi chẳng bao giờ trả hết. Ra Hà Nội làm nghề văn học và âm nhạc từ năm 1978, tôi đâu dám bén mảng tới chiếu rượu của ông. Tôi chỉ là một thằng bé con đang chập chững vào nghề. Nhờ gặp ông, được ông nhận làm học trò, cho làm bạn vong niên cùng uống rượu. Hạnh ngộ ấy đã cho tôi có cái tên hôm nay.
Từ sau lần đầu được ngồi uống rượu với ông và Đặng Đình Hưng, tôi và ông hình như không lúc nào rời nhau. Cho cả đến bây giờ. Dù đã 20 năm xa. Còn nhớ mãi nụ cười nhẹ nhõm của ông khi trở lại vị trí ủy viên chấp hành Hội Nhạc sĩ Việt Nam mùa thu 1983. Đấy là một mùa thu thăng hoa, báo hiệu một điều gì sẽ đổi thay của đất nước. Nhớ nhất là cái đêm ông cùng Trịnh Công Sơn, Trần Long Ẩn, Thu Bồn uống rượu ở căn gác 60 Hàng Bông nhà tôi và sau đó là cuộc tổ chức long trọng 60 năm ngày sinh của ông tại Hội Nhạc sĩ Việt Nam do Tổng Thư ký Huy Du chủ trì. Huy Du nói với tôi: “Nhờ ông anh viết “Thiên Thai” mà mình mê nên mới có sáng tác đầu tay “Sóng nước Ngọc Tuyền”. Ơ kìa! Mênh mông chèo khua nước Ngọc Tuyền mà”. Hôm đó, cả Trịnh Công Sơn và Trần Long Ẩn đều hát say sưa những sáng tác của các anh mừng thọ Văn Cao.
Từ đấy, ông và tôi cùng bạn bè có những tháng ngày lãng du tuyệt vời. Cuối năm 1983, về Nhà máy Toa xe Hải Phòng. Chuyến ấy, ông viết “Hành khúc công nhân toa xe”: “Một vùng trời vang sóng vỗ biển Đông/ một vùng trời luôn thắp sáng ngàn sao/ vùng rộn ràng trong tiếng búa nhà máy/ dù giặc thù bom đánh phá đêm ngày…”. Mùa thu 1984, trở lại trung du vùng núi Thắm. Lần đó, ông viết “Tình ca trung du” – ca khúc cuối cùng của nghiệp âm nhạc: “Một cánh tay sông Hồng/ một cánh tay sông Lô/ hai cánh tay như ôm trung du …”.
Một bản lĩnh thơ
Cuối xuân 1985, vào Quy Nhơn. Đấy là dịp ông viết bài thơ về Quy Nhơn 3: “Từ trời xanh – rơi – vài giọt tháp Chàm…”. Cũng đợt ấy, Văn Cao đã đi đến nơi xa nhất trong cuộc đời mình – TP Cần Thơ. Sau chuyến đi, lần đầu tiên, thơ Văn Cao được in trở lại trên Báo Văn Nghệ. Đó là chùm ba bài thơ “Quy Nhơn” sau 29 năm không in thơ ông trên tuần báo này, mà chỉ xuất hiện với những hình minh họa ký chữ Văn. Giữa những chuyến đi cùng tôi ngày đó, Văn Cao có chuyến đi riêng vào Huế và Đà Nẵng với lời mời của nhà văn Phan Tứ, khi ấy là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Nam – Đà Nẵng. Cũng là một lần trở lại để có “Về Huế xưa”, “Đêm phá Tam Giang”… những bài thơ cực ngắn, cực hay: “Lưới là cái cuối cùng/ Hất tôi xuống biển”.
Năm 1986, hình như linh cảm điều đổi thay đất nước đã tới gần, Văn Cao cùng tôi lần mò những bài thơ của ông làm trong các cuốn sổ tay đã hoen màu thời gian từ năm 1956 đến lúc đó để tập hợp thành một tập thơ. Ông đặt tên là “Lá”. Năm ấy, hầu như ngày nào tôi cũng ngồi làm biên tập cùng ông. Và tất nhiên là cùng uống rượu. Tập thơ hòm hòm thì cũng là thời điểm Đại hội Đảng phất cao ngọn cờ đổi mới. Ông yêu cầu tôi viết lời giới thiệu. Và bài “Văn Cao một bản lĩnh thơ” đã được tôi hoàn thành để giao bản thảo cho Nhà Xuất bản Tác Phẩm Mới. Năm 1988, cùng với việc diễn ra “Đêm nhạc Văn Cao”, từ đầu năm là tập thơ “Lá” được ấn hành tuy không in lời giới thiệu của tôi. Nhưng bù lại, Nhà Xuất bản Trẻ lại ấn hành tập thơ – nhạc – họa của ông mang tên “Thiên Thai”.
Đấy là những năm tháng thăng hoa trong sự phục sinh của Văn Cao. Ông lại tiếp tục có những chuyến giao lưu ở TP HCM, ở các tỉnh miền Nam. Buồn nhất là chuyến lên Tây Nguyên theo ước nguyện của ông nhưng không thành. Tiền vé máy bay của anh em Tây Nguyên mời biến thành cái tủ mới ở nhà ông.
Tháng 3-1995, chuẩn bị Đại hội Hội Nhà văn Việt Nam, tôi phát hiện ban chấp hành cũ mang Trại sáng tác Quảng Bá ra liên doanh với nước ngoài xây khách sạn. Tôi đem chuyện buồn này kể với ông. Ông trầm giọng nói: “Sao lại bậy bạ thế. Phải lên tiếng nhé. Đừng sợ. Sẽ có những người ủng hộ chân lý”. Nghe lời ông, tôi đăng đàn giành lại mảnh đất thiêng liêng này và được đại hội ủng hộ. Sau đại hội, tôi đến báo cáo kết quả. Ông cười mãn nguyện: “Đã đến lúc không phải sợ gì nữa”. Bữa đó, ông “lì xì” tôi một chai Macallan.
Khi ấy, ông đã yếu nhiều. Chứng ung thư phổi bắt đầu có triệu chứng tăng trưởng. Nhưng ông vẫn uống rượu và hút thuốc lào như thường. Chẳng hiểu sao, sau đại hội Hội Nhạc sĩ Việt Nam, ông cho bà Bằng (vợ Văn Cao) đến gặp Tổng Thư ký Trọng Bằng. Ông đã sớm dọn dẹp cho mình một cách đi bằng những lời di nguyện. Ông đề nghị khi mất, Hội Nhạc sĩ Việt Nam chủ trì tang lễ. Còn điếu văn thì tôi viết, anh Trọng Bằng đọc.
Văn Cao là người trung chính nên dù bị ung thư nhưng ra đi nhẹ nhàng như một trích tiên. Mới thế mà đã 20 năm…
Tiếp nối ‘Ly rượu mừng’ của Phạm Đình Chương, [dongnhacxua.com] xin mời quý vị trở về với dòng nhạc tiền chiến để thưởng thức một trong những bản nhạc xuân hay nhất của nền tân nhạc Việt Nam: ‘Xuân và tuổi trẻ’ với nét nhạc của nhạc sỹ La Hối phần Việt ngữ do thi sỹ Thế Lữ đặt lời.
LA HỐI VỚI XUÂN VÀ TUỔI TRẺ 1 (Nguồn: tác giả Trương Duy Cường đăng trên QuanVan.Net)
Hàng năm khi mùa xuân đến, nhạc phẩm Xuân và Tuổi Trẻ của nhạc sĩ La Hối lại vang lên cùng với tác phẩm bất hủ Ly Rượu Mừng của nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Xuân và Tuổi Trẻ, nhạc của La Hối,… một nhạc sĩ sống ở miền Trung và lời của Thế Lữ, một nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam, sống ở miền Bắc, không quen biết nhau, không sống gần nhau. Sao có sự kết hợp lạ lùng như vậy? Có nhiều thính giả đã lầm tưởng nhạc sĩ La Hối đã phổ nhạc một bài thơ của thi sĩ Thế Lữ. Nhưng sự thực lại ngược lại.
Nhạc sĩ La Hối tên thật là La Doãn Chánh, sinh năm 1920 tại Faifoo (thành phố Hội An). Ông là người Hoa kiều gốc Quảng Đông (Trung Hoa). Họ La là một đại gia Hoa kiều, đa số lập nghiệp trên đường Rue des Cantonnais (Phố Quảng Đông), sau nầy đổi thành đường Nguyễn Thái Học, như nhà buôn La Thiên Thái, La Thiên Ba, La Thiên Hòa, La Ngọc Anh tại Phố Cổ Hội An và La Hoài đường Gia Hội tại Huế. Gia đình cha mẹ tôi sống bên cạnh các gia đình họ La đó.
Năm 1936-1938, La Hối vào Saigon để học tiếp văn hóa Trung Hoa bậc Cao Trung và đồng thời trau dồi thêm âm nhạc cổ điển tây phương và sáng tác. Ông sử dụng thành thạo guitare, accordéon và piano.
Về lại địa phương, ông thành lập Hội Âm Nhạc Hội An (Société philharmonique de Faifoo) mà ông là hội trưởng sáng lập. Ông tiếp tục hướng dẫn các nhạc sĩ trẻ tại địa phương như Lê Trọng Nguyễn, Lan Đài, Dương Minh Ninh, Hồ Vân Thiết… trong lãnh vực hòa âm, sáng tác âm nhạc.
Sau nầy, vào thập niên 50, Lê Trọng Nguyễn được nhiều người biết đến qua nhạc phẩm Nắng Chiều, Sao Đêm, Chiều Bên Giáo Đường… Lan Đài với nhạc phẩm Chiều Tưởng Nhớ và Dương Minh Ninh với Gấm Vàng, Đường Chiều… (các nhạc phẩm trên do Tinh Hoa, Huế và Tinh Hoa Miền Nam (Saigon) của nhạc sĩ Lê Mộng Bảo in ấn và phát hành khắp toàn quốc trước năm 1975.
Theo nhiều người trong gia đình họ La cho biết, khi La Hối đi dạy nhạc, ông đã yêu một cô gái dạy dương cầm. Tình yêu nầy đã thúc đẩy ông sáng tác một số tình khúc để riêng tặng người yêu. Và chỉ có người bạn gái nầy mới giữ đủ nhạc phẩm do La Hối sáng tác. Gia đình họ La chỉ biết và giữ một vài ca khúc của La Hối, trong số nầy có nhạc phẩm Le Printemps et la Jeunesse (đầu đề bằng Pháp ngữ và một người bạn Hoa kiều thi sĩ Diệp Truyền Hoa đặt lời ca bằng Hoa ngữ là Thanh Niên Dữ Xuân Thiên).
Riêng cô gái dạy dương cầm, vì chiến tranh xảy ra, từ sau 1945 đến 1975, nên gia đình họ La không còn nhớ tên và mất liên lạc với cô nầy để xin ghi chép lại các sáng tác âm nhạc của nhạc sĩ La Hối. Vì thế xem như tuyệt bản sau khi La Hối mất sớm, mới ngoài 25 tuổi.
Thập niên 40, quân đội Thiên Hoàng Nhật Bản với chủ trương Đại Đông Á, đã xâm chiếm Trung Hoa, Triều Tiên, Việt Nam và một số quốc gia Đông Nam Á khác. La Hối là một thanh niên Trung Hoa yêu nước nên đã tham gia vào phong trào chống phát xít Nhật Bản. Ông là người đứng đầu một nhóm Hoa kiều tại Việt Nam theo Trùng Khánh (phe Thống Chế Tưởng Giới Thạch) trong Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Đây là một đảng bộ lớn ở hải ngoại, hoạt động tại Hội An và khắp Việt Nam. Hoạt động chống Nhật Bản tại địa phương có nhiệm vụ theo dõi tình hình điều quân, chính trị, văn hóa Nhật. Các đồng chí của ông kẽ biểu ngữ, in và phân phát truyền đơn chống Nhật Bản, phá hoại các nơi Nhật Bản đồn trú, phá kho lương thực, đầu độc các con ngựa chiến mà các sĩ quan Nhật Bản cưỡi để thị oai…
Theo một vài cựu đồng chí người Hoa tiết lộ “nhạc sĩ La Hối đã dùng mấy notes nhạc trong phần dạo khúc mở đầu (introduction) của nhạc phẩm Thanh Niên Dữ Xuân Thiên: “là là là là, là là là rê, là là là mí, là là là phá, là là là sól, là là là lá, sól mi đô là, sól mi rề” làm một khẩu hiệu liên lạc công tác…
Hiến binh Nhật Bản đã theo dõi và phát hiện những hoạt động của phong trào chống Nhật nầy.
Và một ngày trong tháng tư năm 1945, La Hối và 9 đồng chí bị Nhật bắt giam vào tháng trước đó, bị Nhật đem ra xử tử tại núi Phước Tường, gần phi trường Đà Nẵng và chôn chung một hố. (Danh sách 10 vị bị Nhật Bản xử chém sáng ngày 1/4/1945 là La Doãn Chánh (La Hối), Lâm Kiến Trung, Thái Văn Lễ, Tạ Phúc Khương, Lương Tinh Tiêu, Vương Thanh Tùng, Trình Duy Huấn, Trịnh Yến Xương, Lâm Bình Hoành và Kim Bính Bồi. Tổng Thống Trung Hoa Dân Quốc Tưởng Giới Thạch ban cho 4 chữ Dân Tộc Chính Khí để tuyên dương 10 vị liệt sĩ nầy).
Sau khi Nhật Bản đầu hàng đồng minh, ngũ bang Trung Hoa Lý Sự Hội ở Hội An đã cải táng 10 liệt sĩ Trung Hoa nầy tại nghĩa trang Thanh Minh, ngoại ô thành phố Hội An, lập kỷ niệm đài để người dân địa phương, không phân biệt Việt Nam hay Hoa kiều, đến viếng mộ các chiến sĩ kháng Nhật.
La Hối (1920-1945) khi bị xử tử mới có 25 tuổi. Ông đang yêu đời, yêu nước, và đang sáng tác một số tình ca và nhiều nhạc khúc hùng mạnh chống phát xít Nhật.
Năm 1946, đoàn ca vũ Anh Vũ, từ thủ đô Hà Nội đi lưu diễn các tỉnh Trung, Nam Việt Nam. Sau khi trình diễn tại Huế, đoàn trực chỉ Hội An, mặc dù lúc đó Hội An đang bị mưa to gió lớn, ngập lụt dâng cao trên quốc lộ 1 từ Đà Nẵng vào Hội An.
Đoàn Anh Vũ được sự giúp đỡ tận tình của nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn và một số thanh niên tại Hội An, nên đoàn văn nghệ vẫn đến được Hội An để trình diễn vở Tục Lụy của nhà văn Khái Hưng do nhạc sĩ Lưu Hữu Phước viết nhạc. Ông Võ Đức Diên là trưởng đoàn và trong đoàn có thi sĩ Thế Lữ (và vợ, một kịch sĩ có tài), nhạc sĩ Văn Chung, nhạc sĩ Bùi Công Kỳ, nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát và một số ca kịch sĩ nữa tháp tùng.
Khi đến thành phố Hội An, các nhạc sĩ đồng hành với nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát muốn liên lạc với nhạc sĩ La Hối. Đến nơi mới biết La Hối không còn nữa, trước đó vài tháng. Thi sĩ Thế Lữ xin phép gia đình họ La để đặt lời ca cho nhạc phẩm Le Printemps et la Jeunesse, có lời Hoa là Thanh Niên Dữ Xuân Thiên, thành lời ca tiếng Việt là Xuân và Tuổi Trẻ. Nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát soạn hòa âm, nhạc sĩ Văn Chung soạn vũ điệu, Thế Lữ đạo diễn.
Thế là vũ khúc Xuân và Tuổi Trẻ của La Hối với lời ca tiếng Việt do đạo diễn kiêm thi sĩ Thế Lữ được cất cao lần đầu tiên tại nhà hát Phan Hương trên đường Minh Hương, thị xã Hội An. Sau nầy, cũng trên khu đất nầy, hý viện Phi Anh với 1.200 chỗ ngồi, là rạp hát hiện đại của thập niên 50 được xây cất thay thế nhà hát cũ và tên đường được đổi thành đường Phan Châu Trinh.
Các nhạc sĩ, kịch sĩ, thi sĩ trong đoàn ca vũ kịch Anh Vũ đồng hành đến thăm nhạc sĩ La Hối, có thể là cựu đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng ngoài Bắc, hoặc là cảm tình viên với Việt Nam Quốc Dân Đảng (nhưng trong thời kỳ Việt Minh mới cướp chính quyền thì họ phải giấu kín đảng tịch cũ) cốt ý đến thăm một đồng chí mà từ lâu họ đã nghe tiếng hoặc ái mộ cũng nên. Chỉ có các vị đó biết và nay họ đã qua bên kia thế giới, đem theo bí mật không bật mí được khi họ sống dưới chế độ độc đảng cộng sản từ lúc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa năm thứ nhất (1945), thứ hai (1946)!
Tuy nhiên, duyên tri ngộ ngắn ngủi nầy cũng để lại cho thính giả yêu âm nhạc Việt Nam được một giai thoại quý giá và một lời ca của nhạc khúc xuân bất hủ hơn 60 năm trôi qua.
Nhờ lời ca viết bằng tiếng Việt rất hay của thi sĩ Thế Lữ, từ đó Xuân và Tuổi Trẻ ra khỏi thành phố cổ nhỏ bé Hội An đã chu du khắp nơi trên thế giới mỗi khi mùa xuân trở về với cộng đồng tỵ nạn Việt Nam.
Thập niên 1940, khi tôi còn nhỏ, sinh hoạt trong đoàn thể hướng đạo Việt Nam, tôi thích âm nhạc, nên thường đi nghe các buổi hòa nhạc của hội Âm Nhạc Hội An và bản Le Printemps et la Jeunesse vẫn là nhạc phẩm được hòa tấu để mở màn cho các buổi hòa nhạc hoặc nhạc ca kịch tại địa phương.
Ngày nay ở hải ngoại, các hội Ái Hữu Quảng Nam Đà Nẵng ở mọi nơi vẫn lấy bài Xuân và Tuổi Trẻ làm nhạc phẩm chào mừng đồng hương mỗi khi có dịp hội ngộ.
Nữ ca sĩ Hồng Hạnh (gốc Hội An) trong một CD mới phát hành cũng đã hát nhạc phẩm Xuân và Tuổi Trẻ của La Hối, lời Thế Lữ với tất cả đam mê, tuyệt vời. (CD Hồng Hạnh 2: Em và Quê Hương ra mắt thính giả tại hí viện Le Petit Trianon tại San Jose ngày 14/1/2006).
Một điều đáng tiếc là nhạc sĩ La Hối, cha đẻ của nhạc khúc lại không được nghe nhạc phẩm của ông hát bằng lời ca tiếng Việt rất du dương của thi sĩ Thế Lữ Nguyễn Thứ Lễ, một trong những thính giả mến mộ tài năng của ông và cũng có thể là một đồng chí (hoặc cảm tình viên) của hoạt động yêu nước của nhà cách mạng La Hối chống phát xít Nhật Bản.