Như một nén nhang lòng thắp lên cầu mong cho linh hồn nhạc sỹ Nguyễn Đình Toàn sớm siêu thoát về miền cực lạc, DòngNhạcXưa xin gởi đến người yêu nhạc bản nhạc nổi tiếng mà ông viết cuối thập niên 1970, khi ông còn đang ở trong trại tù cải tạo. Thông qua những bạn tù đã được thả trước đó, nhạc phẩm này vượt đại dương để có mặt trong băng cassette ‘Người di tản buồn’ xuất bản năm 1979 tại hải ngoại.
Có một chi tiết thú vị là trong bản ghi âm này, Khánh Ly đã hát ‘đâu rộn ràng giọng hát Thái Thanh’, trong khi bản gốc mà Nguyễn Đình Toàn muốn viết ‘đâu rộn ràng giọng hát Khánh Ly’. Sau này, khi đã sang Mỹ, nhạc sỹ có tâm sự sở dĩ ông dùng tên ‘Khánh Ly’ vì ông và ca sỹ có một mối thâm giao trước đó khi còn ở Sài Gòn; và hơn nữa chữ ‘Ly’ đi có vần hơn với những câu trước:
Sài Gòn ơi! Đâu những ngày mưa mùa khoác áo đi Tay cầm tay nói nhỏ câu gì Đâu quầy hoa quán nhạc đêm về Đâu rộn ràng giọng hát Khánh Ly
Còn riêng Khánh Ly thì cho biết cô không muốn tự hát về bản thân và cũng vì lòng mến mộ với đàn chị Thái Thanh nên trong lần ghi âm đầu tiên cô đã hát hai chữ ‘Thái Thanh’. Sau này, những ai hiểu chuyện đều đã hát đúng nguyên tác: ‘đâu rộn ràng giọng hát Khánh Ly’.
Đôi lời góp vui để thấy cái cách đối xử thật tế nhị của giới văn nghệ sỹ thời xưa!
Đêm 28/11/2023 theo giờ California, tức sáng 29/11/2023 theo giờ Sài Gòn, làng văn nghệ Việt Nam lại đón nhận một tin buồn, phải nói là thật buồn. Đó là sự ra đi vĩnh viễn của nhà văn, nhà thơ và nhạc sỹ Nguyễn Đình Toàn.
DòngNhạcXưa cầu mong linh hồn ông mau siêu thoát về miền cực lạc!
Nguyễn Đình Toàn (sinh 6 tháng 9 năm 1936, mất 28 tháng 11 năm 2023) là nhà văn và nhạc sĩ người Việt định cư ở Mỹ. Ông còn có bút hiệu là Tô Hải Vân khi viết văn và Hồng Ngọc khi viết nhạc.
Nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn sinh tại huyện Gia Lâm thuộc tỉnh Bắc Ninh (về sau đổi thành quận Gia Lâm tỉnh Hà Nội) và di cư vào Nam năm 1954.
Ông đóng góp nhiều sáng tác văn học nghệ thuật dưới nhiều dạng: tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch nói, bút ký. Tác phẩm ‘Áo mơ phai’ đoạt Giải Văn học Nghệ thuật của Việt Nam Cộng hòa năm 1973.
Nguyễn Đình Toàn viết nhiều truyện dài đăng thành nhiều kỳ trên các báo chí Việt Nam Cộng hoà như tạp chí Văn, Văn Học và các nhật báo như Tự Do, Chính Luận, Xây dựng, và Tiền Tuyến.
Ông cũng có tay trong việc phát triển tân nhạc Miền Nam qua chương trình phát thanh Nhạc chủ đề trên đài phát thanh quốc gia VTVN mỗi tối Thứ Năm.
Sau năm 1975, ông bị bắt và giam học tập cải tạo 10 năm mới được thả. Năm 1998 ông cùng vợ được xuất cảnh sang Mỹ và định cư ở California nơi ông tiếp tục viết cho báo Viet Tide.
Những nhạc phẩm trứ danh nhất của ông gồm “Sài Gòn niềm nhớ không tên” (nguyên nhan đề là “Nước mắt cho Sàigòn”), “Căn nhà xưa”, “Mưa trên cây hoàng lan”, và “Tình khúc thứ nhất” do Vũ Thành An phổ nhạc. Ca sĩ Khánh Ly đã thâu âm và phát hành hai dĩa hát với những sáng tác của ông.
Ông tạ thế hồi 19 giờ 15 phút ngày 28 tháng 11 năm 2023 tại tư gia, theo giờ California.
Theo hồi ký của nhạc sĩ Phạm Duy, nhạc sĩ Lê Thương sinh năm 1913. Ông cùng với anh em nhạc sĩ Hoàng Quí, Tô Vũ (Hoàng Phú) đã thành lập một ban nhạc tại Hải Phòng từ năm 1935, chuyên đi phụ diễn cho đoàn kịch của thi sĩ-kịch tác gia tiền chiến Thế Lữ. Có thể xem Lê Thương là thế hệ đầu đàn của nền âm nhạc tiền chiến Việt Nam.
Sáng tác từ rất sớm, nhạc sĩ Lê Thương sáng tác rất nhiều thể loại ca khúc khác nhau. Đặc biệt, ông có những tác phẩm viết cho thiếu nhi cũng thuộc dạng để đời, như bài Thằng Cuội (đã nhắc đến trong bài viết chủ đề Trung Thu), Học Sinh Hành Khúc, Ông Nỉnh Ông Nang… Tuy nhiên, không một ai, kể cả tác giả, có thể phủ nhận thiên trường ca Hòn Vọng Phu là dấu ấn độc nhất vô nhị của Lê Thương trong nền âm nhạc Việt Nam hiện đại.
Theo một vài nguồn tin đáng tin cậy mà chúng tôi có được, thi sỹ Cung Trầm Tưởng, tác giả của một số bài thơ “Mùa thu Paris”, “Chưa bao giờ buồn thế”, “Bên ni bên nớ”, … mà sau này nhạc sỹ Phạm Duy đã biến thành những nhạc phẩm để lại dấu ấn khó phai mờ trong dòng nhạc phổ thơ, vừa qua đời tại Hoa Kỳ ở tuổi 90 (Nguồn: nguoi-viet.com)
DòngNhạcXưa xin cầu mong cho linh hồn ông mau hưởng hạnh phúc miên viễn, nơi ‘không bao giờ buồn thế’!
Cung Trầm Tưởng tên thật là Cung Thức Cần, sinh ngày 28 tháng 2 năm 1932 tại Hà Nội. Năm 15 tuổi (1947), ông bắt đầu làm thơ, và có tập thơ đầu tay tên là Sóng đầu dòng (chưa in).
Năm 1949, ông rời Hà Nội vào Sài Gòn, học tiếp trung học tại trường Chasseloup Laubat (nay là Trường Trung học phổ thông Lê Quý Đôn, Thành phố Hồ Chí Minh).
Năm 1952, sau một năm học đại học, ông sang Pháp du học tại Trường Kỹ sư không quân ở Salon-de-Provence.
Năm 1957, ông tốt nghiệp trở về nước làm trong ngành không quân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Trong năm này, hai bài thơ của ông là “Mùa thu Paris” và “Vô đề” (thơ trường thiên) xuất hiện trong tuyển tập “Đất đứng” của nhóm Quan Điểm (gồm Mặc Đỗ, Vũ Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng), và đã làm người đọc chú ý.
Năm 1958, ông đứng ra chủ trương tờ Văn nghệ mới và cộng tác thường xuyên cho các tạp chí Sáng tạo, Hiện đại, Nghệ thuật, Văn, Khởi hành…
Trong khoảng thời gian này, nhạc sĩ Phạm Duy đã phổ nhạc một số bài thơ của ông, đó là những bài “Mùa thu Paris”, “Chưa bao giờ buồn thế” (Phạm Duy gộp lại và lấy tên là “Tiễn em”), “Bên ni bên nớ”, “Khoác kín” (Phạm Duy lấy tên “Chiều đông”), “Kiếp sau”, “Về đây”…Tổng cộng trong 13 bài thơ trong tập “Tình ca” của ông thì 6 bài Phạm Duy chọn phổ nhạc.
Năm 1962, ông sang Hoa Kỳ học về khí tượng, đậu Tiến sĩ khí tượng học tại Đại học Saint Louis. Sau đó, ông trở về Sài Gòn tiếp tục làm trong binh chủng Không quân Việt Nam Cộng hòa với cấp bực cuối cùng là Trung tá (1975). Sau năm 1975, ông phải đi học tập cải tạo 10 năm.
Là một nhạc sỹ tài hoa và có tâm hồn lãng mạn, dễ rung cảm trước cái đẹp, nhạc sỹ Lam Phương không tránh khỏi những rung động của con tim trong cuộc đời thăng trầm của một người nghệ sỹ. Lại sinh ra trong một giai đoạn đầy biến động của thời cuộc, là chứng nhân của bao biến cố trên quê hương Việt Nam, Lam Phương đã để lại nhiều tuyệt phẩm mà trong đó chúng ta thấy thấp thoáng hiện lên nhiều bóng hồng đã đi qua cuộc đời nhà nhạc sỹ. DòngNhạcXưa xin giới thiệu một bài viết đầy đủ và chân thật của nhà văn, MC Nguyễn Ngọc Ngạn, một người em thân yêu, người bạn thâm niên trong sinh hoạt văn nghệ hơn 50 năm của Lam Phương.
Coranavirus là một thảm họa gây thương vong khủng kiếp chưa từng có tiền lệ trong nhiều thập kỷ qua mà nhân loại từng gánh chịu. Chúng ta đã chứng kiến quá nhiều cái chết thương tâm không có người thân trong giờ phút cuối cùng hay không thể nào quên những hình ảnh đầy ám ảnh về từng dòng xe chở xác chết đến lò thiêu, đến nghĩa trang tập thể. DòngNhạcXưa cầu xin cơn đại dịch mau chóng qua đi để trả lại hạnh phúc và bình an cho nhân thế.
Nhân đây chúng tôi xin hân hạnh giới thiệu sáng tác mới nhất có nhan đề “Nếu” của nhạc sỹ Hoàng Thanh Tâm, dựa theo ý thơ của thi sỹ Mục Tú.
Đầu những năm 2000, người yêu nhạc có dịp thưởng thức một nhạc phẩm với giai điệu đẹp và ca từ khá trau chuốt: ‘Xin làm người hát rong’. Ngày ấy DòngNhạcXưa còn nhớ FM 99.9 của Đài Tiếng Nói Sài Gòn liên tục phát bản này trên các kênh ca nhạc như ‘Làn sóng xanh’. Lúc đó bản này được giới thiệu là một sáng tác của nhạc sỹ Trần Long Ẩn. Tuy nhiên xung quanh ‘Xin làm người hát rong’ có vài chi tiết thú vị mà chúng tôi muốn giới thiệu đến quý vị thông qua một bài viết của tác giả Hoàng Nhân trên báo Thể Thao & Văn Hóa ngày 19/09/2014.
Chuyện ít biết về bài hát ‘Xin làm người hát rong’
(Thethaovanhoa.vn) – Nhân sinh nhật lần thứ 72 của nhà văn – đạo diễn Lê Văn Duy vừa qua, nhiều bạn bè văn nghệ từng làm việc với ông kể lại câu chuyện ít người biết: Bài hát Xin làm người hát rong của nhạc sĩ Trần Long Ẩn có được từ ý thơ của Lê Văn Duy.
Xin làm người hát rong được phổ biến rộng rãi qua sự trình bày của nhiều ca sĩ, với những câu hát đi vào lòng người:
“Cũng đành xin làm người hát rong Chỉ mong đời không chê trách Chỉ mong chuyến xe muộn màng Không dừng sớm khi đang rong chơi…”
Ai cũng biết bài hát này của nhạc sĩ Trần Long Ẩn, song không mấy ai biết bài hát liên quan đến đạo diễn Lê Văn Duy. TT&VH đã tìm gặp đạo diễn, nhà văn Lê Văn Duy và ông đồng ý kể lại câu chuyện này:
– Chuyện cũng đã lâu rồi, và thực tế, nhạc sĩ Trần Long Ẩn cũng đã có lời xin lỗi nên tôi không muốn nhắc lại. Nhưng bạn bè đã nhắc lại trong sinh nhật của tôi và nhà báo đã hỏi thì tôi trả lời.
Thi phẩm ‘Đắng và Ngọt’ của thi sỹ Trang Thế Hy viết dưới bút danh Minh Phẩm được nhà văn Bình Nguyên Lộc đổi tựa thành ‘Cuộc đời’ và đưa vào số tháng 9/1959 trên tuần báo ‘Vui sống’ ở Sài Gòn xưa. Từ đó, nhạc sỹ Phạm Duy đã lồng vào một giai điệu thật đẹp để hậu thế chúng ta có bản ‘Quán bên đường’. DòngNhạcXưa xin giới thiệu một bài viết với nhiều thông tin có giá trị của tác giả Nguyễn Hữu Nghĩa gởi riêng cho chúng tôi để thế hệ trẻ hiểu thêm về nền thi ca, âm nhạc của một thời xa xưa.
Đắng và ngọt nơi quán bên đường.
(Nguồn: bài viết của tác giả Nguyễn Hữu Nghĩa gởi cho DongNhacXua.com ngày 2019-09-24)
Vào giữa thập
niên 50 của thế kỷ trước, thuở ấy đất nước bị chia đôi theo một hiệp định vừa
được ký kết, vì thế từ ngữ “chiến
tranh” hiện diện trong tin tức hàng ngày không được người dân quan tâm
mà xem đó như một đe dọa không phản ảnh thực tế.
Nhưng rồi
chiến tranh không còn là sự đe dọa nữa mà đã thật sự bùng nổ. Các xóm làng chưa
kịp hồi sinh bởi những tàn phá của giai đoạn kháng chiến thì nay gặp nguy cơ là
phải đối diện với cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Quê hương sẽ lại một phen chìm
vào tang tóc.
Chúng tôi rất lấy làm vinh dự khi vừa nhận được một bài viết rất có giá trị của một thân hữu yêu thơ nhạc có tên là Nguyễn Hữu Nghĩa viết về bản ‘Ngậm ngùi’ mà Phạm Duy đã phổ nhạc một cách rất tài tình từ bài thơ cùng tên của thi sỹ Huy Cận. DòngNhạcXưa xin chân thành cảm ơn và giới thiệu bài viết đến những người yêu mến dòng thơ nhạc của một thời tiền chiến.
Tản mạn về ‘Ngậm ngùi’
(Nguồn: bài viết của tác giả Nguyễn Hữu Nghĩa gởi riêng cho DongNhacXua.com ngày 2019-09-16)
Những câu
thơ buồn bã dường như không phân định được đâu là cõi mộng và đâu là thực đã
thâm nhập vào văn học nước nhà từ thập niên thứ tư của thế kỷ trước, nhiều thế
hệ đã thưởng thức và đến nay lời thơ đẹp như ca dao ấy vẫn mê hoặc lòng người.
Thơ hay, được
nhạc sĩ tài hoa phổ nhạc. Sự phối hợp đã chắp cánh cho thơ vượt qua những sàng
lọc nghiệt ngã của thời gian và ý thức hệ. Ý thơ và giai điệu quấn quýt nhau để
tạo thành cuộc hôn nhân đẹp đẽ.
Giòng văn học
đang trên đà phát triển nhưng cuộc đời cũng bắt đầu thấp thoáng những gập ghềnh.
‘Ngậm ngùi’ cũng không thoát khỏi, tựa đề bài thơ phải chăng cũng là
sự tiên liệu cho số phận của chính nó bởi nó đã bị ai đó nhân danh một hệ văn
hóa nào đó tước đoạt quyền rong chơi trên một phần đất nước trong những giai đoạn
biến động đã qua.
Ngày còn nhỏ,
đã bao lần tôi nghe ‘Ngậm ngùi’. Thuở ấy, nhạc phẩm này từng ngày vang vang trên
đài phát thanh, nơi quán cà phê, phòng trà, tư gia… Các chương trình phát
thanh tiếng Việt ở nước ngoài cũng nhiều lần trang trọng đưa ‘Ngậm ngùi’ lên làn
sóng. Thanh niên các thế hệ đã hòa tiếng hát với tiếng guitare dìu dặt để thổn
thức với ‘Ngậm ngùi’. Tôi cũng thế và làm lây lan ‘Ngậm ngùi’ đến bạn bè và đến cả
người trong mộng. Nay nghĩ lại mà thấy lạ, ngày ấy tuổi còn vị thành niên mà
sao cứ thích đóng vai một kẻ đã từng nếm trải đắng cay!
Nhưng nội dung bài thơ lại không thể hiểu cặn kẽ. Ngay câu đầu tiên “Nắng chia nửa bãi, chiều rồi…” đã là cái gì đó rất đỗi mơ hồ. Tôi thầm mong có ai đó giải thích nhưng chưa biết hỏi ai, đến lúc vừa lớn thì đất nước lại sôi sục biến động, thế là đành xếp lại mộng mơ để chuẩn bị cho một thực tế đầy khác lạ. Kể từ đấy ‘Ngậm ngùi’ bị buộc phải rời khỏi đời sống công khai, nó chỉ còn sống lặng lẽ, lây lất trong tâm hồn những ai từng biết và yêu mến nó.
Ngày tháng
trôi đi, do công việc nên tôi thường xuyên qua lại trên con đường xuyên Việt
vào nhiều thời khắc khác nhau. Trên đường cái quan, tôi mê mải ngắm những di
tích bị bỏ mặc cho hoang tàn, xót xa trước những phế tích tan tác đang oằn oại
gánh nặng nỗi buồn đau quá khứ. Nhưng núi non trùng điệp, nương đồi chập chùng,
biển xanh mênh mông và những cánh đồng tuy nhỏ hẹp nhưng xanh tươi dọc duyên hải
miền Trung lại gây hưng phấn, thích thú cho kẻ có tâm hồn thích ngao du. Không
quá lời khi nói rằng những ai có dịp đi đó đây là những người may mắn, vì chỉ
có thực tế theo cách này mới cảm nhận được
cái đẹp nhiều khi đến sững sờ do thiên nhiên ban tặng. Riêng miền Trung, ngoài
sự hùng vĩ của thiên nhiên thì quanh đó vẫn còn những cảnh sắc, những phận người
buồn đến nghẹn ngào.
Một lần
trên đường từ Bắc về Nam, khi ngang qua vùng Hà Tĩnh vào buổi chiều, một hình ảnh
không lẫn vào đâu được chợt chói lòa trong tâm thức. Theo cách diễn tả của thi
nhân thì khi “Nắng đã xế về bên xứ bạn” chính là lúc mặt trời đã ngả
về Tây, tức là đã vượt chếch qua bên kia dẫy Trường sơn. Lúc này phía Trường
sơn Tây đang còn nắng thì mé Trường sơn Đông, tùy từng chỗ, nắng chỉ còn thoi
thóp hoặc nắng đã không còn. Hoa lá sau những nỗ lực khoe sắc cuối cùng đã ảm đạm
dần đi, mầu hoàng hôn đang bảng lảng.
Chiều xuống
rất nhanh, hơi lạnh từ rừng sâu, từ vách đá bắt đầu lan tỏa rồi vươn mình che mờ
thôn xóm, nương đồi. Nhưng điều muốn nói là trên đường cái quan và những cánh đồng
ven biển; thì ơ hay, nắng chiều còn vương vấn! Thế đấy, chiều đã chia đôi không
gian, nửa còn nắng và nửa đã chiều rồi. Câu lục đầu tiên thoát khỏi sự bí ẩn đã
giúp những câu sau dễ hiểu hơn.
Nhà thơ quê
ở Hà Tĩnh, hẳn là đã chứng kiến không biết bao lần cảnh chiều quê trong không
gian đôi ngả này, thi nhân bồi hồi trước cảnh vẻ buồn bã của mầu thời gian đang
dần phai, ông đã nhuốm lạnh trong không gian se sắt buổi chiều tà thưa thớt người
qua lại, thi thoảng có ai thấp thoáng trên nương đồi thì bóng cũng nhòa đi
trong sương nhẹ; tiếng tù và mộc mạc vang vọng không gian băng qua lũng đồi nhắc
đàn bò đến giờ rồi, về thôi! Chim chóc từng bầy xôn xao quay về nơi ẩn trú. Hoa
lá cũng cuộn mình vào cõi miên man.
Trinh nữ –
loài hoa dân dã, cũng là một vị thuốc dân gian mọc bạt ngàn dọc đôi bờ quốc lộ,
chúng đã đến giờ khép lá nghỉ ngơi để chuyển tiếp một giai đoạn của chu kỳ sinh
học. Đó đây trên cành Trinh nữ; lác đác vài con nhện bắt đầu giăng tơ, rồi từng
con nhện xuất hiện trong nỗi cô đơn như định mệnh của loài nhện mượn cành Trinh
nữ để cộng sinh theo cách đơn giản nhất. Từng đường tơ trải ra, chúng mong manh
rung ring trong gió, từng nút thắt hình thành khởi đầu cho một cuộc sinh tồn.
Cuộc mưu sinh nhẫn nại đến lạ lùng diễn ra trong thinh lặng khi trần gian đã vắng
bóng mặt trời, chỉ có những vệt đêm lấp lánh ánh sao trong gió rừng vi vu,
trong động đậy hỗn mang của núi rừng nguyên sơ và đôi khi dưới ánh trăng sơn cước
tròn đầy theo chu kỳ từ thuở hồng hoang.
Chiều đã
qua, đêm mênh mông đang xuống. Em dịu dàng xếp lá, gió nhẹ nhàng như vuốt ve, dỗ
dành. Em khép mắt nhưng mở lòng đón nhận những ẩn dấu thiên nhiên, những ẩn dấu
vốn chỉ mở riêng ra cho những tâm hồn biết thao thức đang từ từ hé lộ. Em biết
từng đàn chim đã quay về yên lành trong tổ ấm, không gian đã tắt rồi tiếng ríu
rít gọi đàn. Em mỉm cười nhủ lòng ghi nhớ những âm thanh ấy như những lời thủ
thỉ bè bạn hẹn gặp nhau khi ngày mai tươi sáng, sự quyến luyến lúc chia tay đã
nâng tâm hồn em lên một cung bậc mới. Em biết nơi thôn xóm xa mờ kia, những đụn
khói la đà trong sương nặng phủ che đàn bò nằm lặng yên nhơi cỏ. Em biết em có
bạn bè và được họ yêu thương.
Em nhìn lại
và hài lòng với công việc đã làm trong một ngày vừa qua, một công việc được
thiên nhiên giao phó, dù vô cùng nhỏ bé nhưng nhằm đến mục đích chung là hoàn
thành những mắt xích cần thiết cho sự tồn vong của muôn loài trên trái đất này.
Không ai chấm công, nhưng em vẫn làm tốt công việc mình. Em sống và hồn nhiên
đón nhận nguồn sống từ đất mẹ bao dung và em trao lại cho đời thành quả đạt được
cũng hồn nhiên như lúc nhận. Xa hơn nữa phía ngoài kia văng vẳng tiếng gió hòa
theo sóng rì rào từ bờ đại dương băng qua đường cái quan vang lên như tiếng ru
dào dạt, nâng niu. Em thiếp dần, thiếp dần vào giấc ngủ hồn nhiên bình thường,
không mộng mị xa xôi.
Trước đó một
thời khắc; ven sườn đồi, khói lam chiều nhè nhẹ vấn vương trên mái tranh từng
nhà sàn cô quạnh, đây đó vang tiếng giục giã nhau chiều rồi như tiếng lòng hướng
về nơi ấm cúng.
***
Chiều rồi!
Tiếng kêu thảng thốt thổi bùng nỗi nhớ nhà thoáng đến, nó lay động da diết tâm
hồn, khuấy động nỗi bùi ngùi trong tâm cảnh kẻ phiêu du. Nhà thơ hẳn phải buồn
hơn, buồn đến mức đã ngậm cả nỗi bùi ngùi trong tâm tưởng để tế cáo với Trời đất
nỗi buồn muôn thuở “Chiều rồi” trên quê hương bộn bề sỏi đá. Nỗi buồn
ấy không dừng lại mà mỗi ngày mỗi cao, cao dần cho đến khi nỗi buồn vượt qua mọi
đỉnh điểm để tan chẩy rồi kết tụ thành trái sầu như một di sản gây vấn vương
tâm hồn. Khi sầu đã chín, sầu không còn cưu mang nổi chính mình thì lúc đó “ Ngậm
ngùi ” cũng đến kỳ khai hoa nở nhụy!
Tiếng
chuông từ ngôi chùa trơ vơ trên nền phiến đá lớn đang vang trong không gian quạnh
quẽ như lời nhắc nhở “ về thôi ” bởi ngày đã sắp qua, bởi đêm đang dần đến.
Về thôi! về
với gia đình để được cùng quây quần bên bữa cơm chiều ấm áp tình thân.
Về thôi! để
đêm đêm, dưới mái nhà sàn, tình yêu âm thầm triển nở dẫu ai đó vẫn cứ thẹn
thùng.
***
Nhà thơ
không kiếm đề tài nơi xa xôi, chỉ quan sát và nhạy cảm với những thay đổi vốn
có nơi thiên nhiên cạnh kề, ông đã tắm gội trong nguồn cảm hứng vô tận ấy. Một
tâm hồn biết lắng nghe sẽ đón nhận nỗi xúc cảm đang dâng tràn để dệt cho đời những
tác phẩm có giá trị bền lâu…
Nhìn nắng sớm
ngắm sương chiều, nhà thơ đọc được những chuyển dịch của thiên nhiên, người hòa
nhập tâm hồn vào đấy rồi mặc cho thiên nhiên tâm trạng con người, nhân cách hóa
hoa lá cỏ cây để chúng cùng đồng hành với chúng ta trên con đường đi tìm hạnh
phúc dù không là vĩnh cửu. ‘Ngậm ngùi’ không chỉ là nỗi lòng của tâm hồn trước
thiên nhiên hoang sơ vào những thời khắc nhất định mà còn là tâm trạng của
chúng ta khi đối diện với thiên nhiên tuyệt đẹp đang bị đe dọa bởi sự hủy diệt
môi trường đang diễn ra hàng loạt.
Rồi đây các
đô thị càng lúc càng phát triển, các khu công nghiệp rồi cũng thế và tất cả sẽ
tập trung dọc con đường cái quan. Cuộc sống khá giả lên, lòng người không còn
đơn sơ kéo theo những tính toán tất nhiên của đời sống thị dân sẽ làm diện mạo
thiên nhiên thay đổi theo hướng thu hẹp lại, xấu dần đi. Đô thị mở rộng đấy, những
dẫy nhà bê tông san sát nhau, vui vẻ sầm uất đấy nhưng chẳng còn mối liên hệ
nào với thiên nhiên, mà nếu còn thì xin đừng là những liên hệ thảm thiết – như
Formosa chẳng hạn.
Còn có thể
sống hòa hợp với thiên nhiên để được giấc ngủ hồn nhiên như em với chim mộng đầu
giường không? Câu trả lời tùy thuộc vào loài người có còn biết ơn Đấng Tạo Hóa
đã ban cho mình một trái đất đẹp đẽ, đa dạng, phì nhiêu; có còn nhớ rằng mình
có bổn phận quản lý nó như một người quản lý trung tín không ? Và kế tiếp đâu
là chân dung của văn hóa, cách sống, thái độ của xã hội và của từng cá nhân trước
thảm trạng sinh thái đang diễn ra hằng ngày.
Sẽ buồn lắm nếu một mai ‘Ngậm ngùi’ được thế hệ tiếp nối hát lên như oán trách mà kể lại, rằng thời cha ông chúng ta đã xảy ra một loại tội ác!
Trong ký ức của mỗi người Việt Nam chúng ta, hình ảnh về ‘căn nhà xưa’, nơi chúng ta sinh ra và lớn lên có lẽ là những kỷ niệm khó phai mờ nhất. Dù ta đi đến phương trời nào, dù ta được chiêm ngắm bao nhiêu công trình kỳ vỹ nhưng mái nhà đơn sơ, chái bếp, hàng hiên, gốc cây, luống hoa,… ở ngôi nhà cũ vẫn cứ mãi là niềm rung động, là miền hoài niệm không nguôi. Trong tâm tình ấy, DòngNhạcXưa xin giới thiệu bản ‘Căn nhà xưa’ của nhạc sỹ Nguyễn Đình Toàn.
“Em có nhớ căn nhà xưa bên khu vườn cải? Nơi những sớm mai nằm nghe nắng giòn trên mái …”. Chúng tôi trở lại căn nhà xưa đó ở Đà Lạt giữa những ngày báo chí đề cập nhiều đến chuyện giữ hồn cốt Đà Lạt.