Chắc hẳn người yêu nhạc xưa đều biết rõ trước khi trở thành nhạc sỹ sáng tác thì Nguyễn Ánh 9 là một nghệ sỹ dương cầm có hạng. DòngNhạcXưa xin giới thiệu một bài viết của tác giả Lâm Viên về duyên âm nhạc của Nguyễn Ánh 9 và người thầy, nhạc sỹ Hoàng Nguyên.
Theo dấu xưa, chuyện cũ: Nguyễn Ánh 9 và cây piano xứ hoa đào
Ông Nguyễn Vũ Hoàng, Giám đốc Trung tâm văn hóa tỉnh Lâm Đồng, cho biết dịp Festival Hoa 2015, Trung tâm văn hóa tỉnh Lâm Đồng khai trương “Không gian kỷ vật văn hóa Đà Lạt”, trong đó có trưng bày 2 cây đàn piano có tuổi đời trên 100 năm, nguyên là đàn của các trường học “Tây” ở TP.Đà Lạt từ trước 1975. …
DòngNhạcXưa đã giới thiệu nhiều ca khúc về Đà Lạt cùng các giai thoại bên lề. Hôm nay xin mời quý vị yêu nhạc xưa lại lắng đọng lòng mình cùng những nhạc phẩm bất hủ về thành phố mộng mơ.
Tiếp nối dòng nhạc Hoàng Nguyên, người yêu nhạc xưa không thể nào không nhắc đến sáng tác nổi tiếng của nhà nhạc sỹ và có lẽ cũng là một trong những bản tình ca hay và buồn nhất của nền nhạc Việt: nhạc phẩm “Cho người tình lỡ”. Để giới mộ điệu có thêm thông tin về cuộc đời chìm nổi của nhạc sỹ Hoàng Nguyên, [dongnhacxua.com] xin mạn phép đăng lại bài viết dưới đây.
Đà Lạt mệnh danh thành phố ngàn hoa, nơi đó, có nhiều loài hoa chỉ thích hợp với khí hậu lành lạnh cao nguyên. Giữa khung trời ngàn hoa, có loài hoa được viết thành ca khúc – Hoa Anh Đào – trở thành hình ảnh quen thuộc, tiêu biểu, gợi tình, gợi nhớ cho phố núi mù sương, thơ mộng được vang vọng cho cả bốn mùa nhờ dòng nhạc của nhạc sĩ Hoàng Nguyên.
Nói đến Hoàng Nguyên, mọi người đều liên tưởng đến hai nhạc phẩm một thời yêu thương, vang bóng: Ai Lên Xứ Hoa Đào & Bài Thơ Hoa Đào. Và, ngược lại, nói đến Đà Lạt cùng Hoa Anh Đào, chúng ta gợi nhớ Hoàng Nguyên.
Lãng đãng, mờ ảo với khói sương, với màu hoa, với mây trời… giữa chốn trần tục được thăng hoa qua lời ca tiếng nhạc, như lạc bước vào chốn bồng lai.
Ai Lên Xứ Hoa Đào, bắt gặp hình ảnh:
“Ai lên xứ Hoa Đào, dừng chân bước lần theo đường hoa. Hoa bay đến muôn người, ngại ngần rồi hoa theo chân ai, Đường trần nhìn hoa bướm rồi lòng trần mơ bướm hoa, Lâng lâng trong sương khói rồi bàng hoàng theo khói sương, Lạc dần vào quên lãng rồi đường hoa, lặng bước trong lãng quên…”
Với tâm hồn lữ khách mộng mơ, trữ tình… ru hồn vào cõi mộng cùng bóng dáng giai nhân như tơ vương mây trời giăng mắc trong Bài Thơ Hoa Đào:
“Ngày nào dừng chân phiêu lãng, khách tới đây khi hoa đào vương lối đi. Màu hoa in dáng trời, tình hoa lưu luyến người, Bồi hồi lòng lữ khách thấy cơi vơi…
…Giấc mơ tiên nữ giáng xuống trần Tóc mây buông lơi tha thiết bên hồ. Đợi tình quân đến trong giấc mơ…”.
Chàng lữ khách đó sinh trưởng và lớn lên ở Quảng Trị và Huế. Cũng như nhiều chàng trai trẻ khác, trót nghe theo “tiếng gọi” tham gia kháng chiến chống Pháp vào đầu thập niên 1950, đụng chạm thực tế phủ phàng, ngán ngẫm, chàng giã từ núi rừng miền Trung, chu du vào thành phố mù sương. Mang tâm hồn nghệ sĩ, Hoàng Nguyên (nhà giáo Cao Cự Phúc) có năng khiếu về hội họa và âm nhạc như Văn Cao. Và, chàng thư sinh đó mang tâm hồn lãng mạn, say mê hình ảnh theo truyền thuyết hai chàng Lưu Thần, Nguyễn Triệu vào dịp tết Đoan Ngọ lạc chốn thiên thai với thiên nhiên, mây ngàn gió núi, tiếng thông reo, suối gọi như tiếng nhạc quyện hồn cùng hình ảnh tiên nữ, ca khúc Đường Nào Lên Thiên Thai xuất hiện cùng với bước chân lãng du chàng phiêu bạt trong nỗi mê hoặc, trong lời cám dỗ ở tâm hồn nghệ sĩ bởi phù hợp với khung cảnh trữ tình làm thành ca khúc, say đắm khán thính giả thành phố mù sương:
“Cầm tay em, anh hỏi: đường nào lên thiên thai, đường nào lên thiên thai… Nơi hoa xuân không hề tàn Nơi bướm xuân không hề nhạt Nơi tình xuân không úa màu bao giờ…”
Rồi, nơi đó, tâm trạng, niềm khắc khoải, ưu tư được tỏ bày:
“Anh nào biết đường lên thiên thai! Khi trời đất còn vương thương đau Khi hồn anh chưa biết sẽ về đâu? Anh nào biết đường lên thiên thai Khi lòng còn như băng buốt giá Và tình còn e ấp nói không nên lời…”
Dáng người dong dỏng cao, mái tóc chải bồng bềnh, nhà giáo, nhạc sĩ bước vào tuổi đôi mươi, tay ôm cây đàn guitare, giọng hát trầm buồn, điểm chút phong trần, lãng tử trông tựa bức tranh The Guitarist của Picasco, trở thành thần tượng cho bao kiều nữ yêu văn nghệ và, vô hình chung gợi lại quá khứ đáng “lưu ý” của chính quyền.
Hoàng Nguyên dạy học tại trường tư thục Tuệ Quang, thuộc chùa Linh Quang, khu số 4 Đà Lạt, Thượng tọa Thích Thiện Tấn (anh ruột thầy Nhất Hạnh) làm Hiệu trưởng. Nhà giáo Cao Cự Phúc dạy Việt văn lớp đệ lục, thầy Nhất Hạnh dạy Việt văn lớp đệ thất. Tên tuổi hai nhà giáo như một hấp lực, lôi cuốn học sinh đến trường Tuệ Quang.
Chẳng được bao lâu, sóng gió cuộc đời nổi dậy, năm 1956, trong một trận lùng bắt ở Đà Lạt, trường Tuệ Quang có nhiều nhà giáo bị bắt như Lý Quốc Việt, giáo sư Toán Lý Hóa, Nguyễn Hữu chỉnh, giáo sư Pháp văn… vì hoạt động đảng phái (Đại Việt) và Cao Cự Phúc vì có tham gia trong phong trào “kháng chiến” chống Pháp. Hoàng Thi Thơ ở Sài Gòn phối hợp cùng Hoàng Nguyên, tổ chức đại nhạc hội tại Đà Lạt. Đêm đó có truyền đơn phản động đã rãi bên ngoài. Trưởng ty Công an Cảnh Sát Phạm Trọng Lý (cha ghẻ nữ ca sĩ được thành danh trong mấy thập niên qua) đã có thành kiến với Hoàng Nguyên, nhân cơ hội nầy, quy kết đầu mối có bàn tay của “đối tượng” nên đem nhân viên công lực đến nhà khám xét. Chẳng may, bắt gặp được nhiều bản nhạc tiền chiến, có cả bản “Tiến Quân Ca” của Văn Cao, nhạc phẩm đó Hoàng Nguyên rất ái mộ. Văn Cao đã nổi danh với ca khúc Thiên Thai. Dưới mắt quan chức thẩm quyền, đứng đầu là Trung tá Tỉnh trưởng, nhạc phẩm Đường Nào Lên Thiên Thai có phần ủy mị, yếm thế, ru ngủ tuổi trẻ và ông cho rằng, người sáng tác nhạc phẩm nầy mơ về một thiên đường không tưởng, vẫn còn đi theo con đường của văn nghệ sĩ bên kia vỹ tuyến… Hoàng Nguyên bị bắt và đày ra Côn Đảo khoảng năm 1957.
“… Ở Côn Sơn, thiên tình sử của người nghệ sĩ Hoàng Nguyên mở đầu với cảnh tình éo le và tan tác. Là một tài hoa đa dạng, người tù Hoàng Nguyên được vị Chỉ Huy Trưởng đảo Côn Sơn mến chuộng nên đã đưa chàng ta về tư thất dạy Nhạc và Việt văn cho ái nữ ông, tên H. năm đó khoảng 19 tuổi… Mối tình hai người nhóm lên vũ bảo. Trăng ngàn sóng biển đã là môi trường cho tình yêu ngang trái nầy nẩy nở.
Chợt khi người con gái của Chúa Đảo mang thai. Mối tình hai nhịp so le bị phát giác. Để giữ thể thống cho gia đình. Vị Chúa Đảo giữ kín chuyện nầy và chỉ bảo riêng với người gây ra tai họa là nhạc sĩ Hoàng Nguyên: ông ta đòi hỏi Hoàng Nguyên phải hợp thức hóa chuyện lứa đôi của hai người với điều kiện vận động cho người nhạc sĩ được trả tự do…” (Lâm Tường Dũ – Tình Sử Nhạc Khúc).
Đứng trước hoàn cảnh tiến thối lưỡng nan, Hoàng Nguyên phải hứa để đáp ứng điều kiện nhằm gỡ danh dự cho gia đình vị Chúa Đảo.
Hoàng Nguyên được trả tự do, trở về Sài Gòn, lên Đà Lạt thăm lại trường cũ. Dù rất yêu thích thành phố cao nguyên, song cuộc sống không được thoải mái nên chàng về ở Sài Gòn. Tuy đã hứa và “Đây là mối tình lớn của người nghệ sĩ. Nhưng cánh chim bằng yêu chuộng tự do và nghệ thuật, Hoàng Nguyên không dám trở lại hải đảo để làm rễ ở một nơi rất thiếu tình người, quanh năm suốt tháng khô cằn với sinh hoạt hẹp hòi của những người áo xanh… Chàng đành làm cánh chim bay không bao giờ trở lại” (LTD – TSNK). Mối tình ngang trái nầy thấp thoáng trong tác phẩm “La Chartreuse de Parme” của văn hào Pháp Stendhal, nàng Clélia Conti, con gái trấn thủ ngục thành Parme, đẹp, quyến rũ, ngất ngây bao con tim, cả chàng văn sĩ, định mệnh trớ trêu, chỉ còn lại ảo ảnh, ngang trái và bi thương.
Ở Sài Gòn, Hoàng Nguyên vừa tiếp tục con đường văn nghệ vừa dạy học ở trường tư thục Quốc Anh, vừa tìm cách tiến thân trên con đường học vấn. Năm 1961, Hoàng Nguyên theo học tại Đại học Sư Phạm Sài Gòn, ban Anh văn. Thời gian theo học đại học, Hoàng Nguyên được sự bảo bọc của Ô.B Phạm Ngọc Thìn, Thị trưởng Phan Thiết, tư thất ở Sài Gòn. Phu nhân Phạm Ngọc Thìn là nữ tài tử Huỳnh Khanh cảm mến tài nghệ và tính tình của Hoàng Nguyên nên nhận làm em nuôi, nhân tiện dạy kèm con gái của ông bà là cô Ngọc Thuận. Ngọc Thuận là một thiếu nữ đài các, tâm hồn lãng mạn, làm thơ, viết văn, viết báo.. dười bút hiệu Trưng Liệt Dung.
Hoàng Nguyên khởi đầu là em nuôi của gia đình Ô.B Phạm Ngọc Thìn để dạy cho ái nữ, dần dà hai tâm hồn thầy trò đa cảm gặp nhau, Hoàng Nguyên yêu đắm đuối cô con gái ông Phạm Ngọc Thìn và cuối cùng trở thành rể của gia đình ân nhân trên. Nhạc khúc Thuở Ấy Yêu Nhau ra đời trong khoảng thời gian nầy:
“Thuở ấy yêu nhau anh làm thơ Thuở ấy yêu nhau em đợi chờ, Dòng nước Hương Giang trôi lặng lờ Chưa biết chi giận hờn và chưa biết sầu mộng mơ…
…Và người lên xe hoa Từ giã bến sông dài! Để đến hôm nay tôi ngồi đây Lặng ngắm hoa soan rơi rụng đầy. Người ơi, thơ ngây đã lỡ rồi Khi ta xa nhau rồi, tôi xin chép lại vần thơ”.
Ca khúc bày tỏ nỗi niềm của chàng nhạc sĩ với người con gái đã có đứa con với chàng ở Côn Sơn, được gia đình đưa về sinh sống bên dòng Hương Giang. Chàng đã bắt được liên lạc với nàng nhưng nàng đã chịu đắng cay với niềm đau phụ tình nên không thể hàn gắn mối tình mang đậm vết thương. Nàng tạo lập cuộc đời mới với người đàn ông khác.
Trở lại Sài Gòn, Hoàng Nguyên nhận Ngọc Thuận làm vợ. Và, chàng dù biết qua bằng hữu về tính “lãng mạn, đa tình” của người vợ nhưng định mệnh mang đến hệ lụy và oan nghiệt trớ trêu với cuộc đời, đành chấp nhận. Thiên tình sử xảy ra giữa chàng nhạc sĩ và nhà báo, Tổng thư ký tờ Kỷ Nguyên Mới, tác giả TSNK và cũng là tác giả tác phẩm bằng xương bằng thịt, nhường tác quyền cho chàng nhạc sĩ trông nom. Và tiếp nối với người tình, chủ nhân “tổ hợp GIÓ”.
Thế nhưng, Ngọc Thuận lại rất ghen tuông. Khi biết được ẩn tình của ca khúc Thuở Ấy Yêu Nhau, nàng đã tức giận, đốt nhiều sáng tác viết tay của Hoàng Nguyên, không muốn người chồng bị cắm sừng còn vướng mắc hình ảnh người tình xưa cũ nào trong cung đàn nét nhạc.
Năm 1965, Hoàng Nguyên bị động viên vào Khóa 19 Trường Bộ Binh Thủ Đức. Ra trường được thuyên chuyển về Cục Quân Cụ, dưới quyền của Đại tá nhạc sĩ Anh Việt Trần Văn Trọng. Ban nhạc Hương Thời Gian của Anh Việt giao cho Hoàng Nguyên làm trưởng ban, phần kỷ thuật và hòa âm do Nguyễn Hậu (em ruột của Nguyễn Hiền) đảm nhận. Hương Thời Gian xuật hiện trên Truyền thanh & Truyền hình đã thu hút khá đông thính giả mộ điệu.
Thế rồi, “Trong một chuyến công tác bằng xe Jeep ở miền Đông, Hoàng Nguyên qua đời tại dốc 47 Vũng Tàu bằng tai nạn xe hơi năm 1972” (LTD – TSNK). Hoàng Nguyên vĩnh viễn ra đi vào cõi miên viễn lúc vừa 40, được chôn cất ở nghĩa trang đô thành, để lại vợ và 3 con.
Năm 1973, nhóm thân hữu Hoàng Nguyên gồm nhạc sĩ Nguyễn Hiền, Anh Việt, Lê Trọng Nguyễn, Lan Đài cho xuất bản tuyển tập nhạc của nhóm thân hữu nói trên để phổ biến, lấy tiền xây mộ bia cho Hoàng Nguyên.
Hoàng Nguyên sáng tác rất nhiều nhạc phẩm, đã một thời vang vọng, nét nhạc lời ca nhẹ nhàng, duyên dáng, trử tình, đam mê… vương vấn đau thương.
Nhạc khúc Tà Áo Tím đã làm sống dậy hình ảnh yêu kiều, thướt tha của chốn thần kinh bên dòng sông Hương, núi Ngự:
“Một chiều lang thang bên dòng Hương Giang Tôi gặp một tà áo tím Nhẹ thấp thoáng trong nắng hương Màu áo tím sao luyến thương Màu áo tím sao vấn vương…
…Mặc thời gian dìu đôi cánh biếc Mặc dòng sông dịu nghiêng luyến tiếc Mặc chiều thu buồn như hối tiếc…
Tôi mơ màu áo, ước mong sao áo màu khép kín tin nhau… …Người áo tím qua cầu, và áo tím phai mầu Để dòng Hương Giang hờ hững cuốn nơi nào!”.
Trong ca khúc Cho Người Tình Lỡ, tỏ bày tâm trạng của người nghệ sĩ cho cuộc tình ngang trái, lỡ làng:
“Anh giờ đây như là chim Rã rời cánh, biết bay phương trời nao! Em giờ đây như cành hoa Cho tả tơi đong đưa ngọn gió nào… Thế là hết nước trôi qua cầu Đã chìm sâu những tháng ngày đam mê, Thôi đành quên những thương yêu đầu Như là yêu, với nay đã quá xa!.”
Niềm cay đắng, bi thương đó, cùng với sự nuối tiếc để trang trải, tha thứ cho nhau, thấp thoáng trong tình khúc Đừng Trách Gì Nhau:
“Ôi! trời làm giông tố, Để người thầm trách người sao hững hờ khôn nguôi. Ôi! nửa đời gió sương Mà còn đắng cay, mà còn chua xót vì nhau…
…Oán trách nhau chi, bơ vơ nhiều rồi, xót xa nhiều rồi”.
Khi khoác áo chiến y, Hoàng Nguyên sáng tác nhiều nhạc phẩm về hình ảnh người chiến sĩ, tình ca Lá Rụng Ven Sông là một trong những bản tango hay nhất vào thập niên 60 & 70:
“Thương ai ngoài sương gió Đời lính chiến gian lao Đêm đêm nhìn tay súng Lòng nghĩ tới mai sau Thương ai vì sông núi Mà khoác áo chinh y Thương ai vẫn thương ai. Thương ai, đã thương ai rồi Dù tháng năm dần trôi Dù lá hoa tàn phai Lòng nầy vẫn nhớ thương ai…”
Trong chinh chiến, người chiến binh vẫn mang nặng tình cảm chan chứa, lãng mạn giữa cảnh ngăn cách tiền tuyến, hậu phương được gởi gấm trong nhạc phẩm Sao Em Không Đến:
“Đời tôi từ ngày khoác áo chiến binh Lên đường, biết rằng lòng nầy đã bớt vấn vương Chiều nay, lòng chợt thấy nhớ thương em Thương về mái tóc êm đềm Buông dài phủ kín hồn anh…”
* *
Mùa hè 1971, ba tháng quân trường bên cạnh nhạc sĩ Hoàng Nguyên. Cả hai, theo học Khóa III Trung cấp CTCT tại Trường ĐH.CTCT ở Đà Lạt. Anh đảm nhận Ủy viên Văn nghệ, tôi phụ trách Ủy viên Báo chí. Trở lại thành phố mù sương, với anh, được trở về chốn cũ ở thập niên 50, với tôi ở thập niên 60. Cùng chung căn phòng, anh em chúng tôi thường viện cớ công tác sinh hoạt văn nghệ, báo chí nên được cơ may ưu đãi, trốn học để la cà, bát phố. Chúng tôi có bốn người thường ngồi ở Thủy Tạ trên hồ Xuân Hương cho lãng quên đời. Hình ảnh và tên tuổi Hoàng Nguyên rất thân quen với Đà Lạt vì vậy khi anh liên lạc để tổ chức văn nghệ cho khóa, được nhiều bóng hồng đáp ứng. Tính tình, điềm đạm, ít nói, không thích phê phán, chỉ trích người vắng mặt, anh sống nhiều với nội tâm, chỉ lắng nghe, ít đả phá. Khi đề cập đến những khuôn mặt nhạc sĩ bạn như Hoàng Thi Thơ, Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Văn Phụng, Nguyễn Hiền… anh chỉ nhắc đến những bản nhạc hay của họ được nhiều người ưa thích.
Đối diện quân trường có trường nữ Trung học Bùi Thị Xuân, thời gian liên lạc cho chương trình văn nghệ anh có “mối giao cảm” với hai cô giáo, trong đó có Ấu Lăng (em ruột của Bùi Tín). Điểm hẹn của chúng tôi, thông thường ở Thủy Tạ, khi có chuyện riêng tư tâm tình với nhau, ngồi trong nhà kiếng, bằng hữu ngoài cuộc đọc thơ Vũ Hoàng Chương “lũ chúng tôi lạc loài năm bảy đứa” ngồi ngoài nhìn sương đêm, hồ nước.
Thuở đó, tôi vẫn luyện chưởng, nghe nhạc cổ điển và thường kể những mối tình hoa mộng qua ngòi bút của Kim Dung. Một buổi tối, ngồi nhậu ở Câu Lạc Bộ, nghe Dương Hùng Cường đang theo học khóa Căn Bản CTCT nói về cuộc tình đầy bi thương mà Hoàng Nguyên chấp nhận, tôi mới vỡ lẽ. Thảo nào, những lúc nhìn anh, thoáng hiện nỗi u buồn xa vắng mênh mông. Tôi hiểu niềm đau thương, khắc khoải trong anh như chấp nhận định mệnh oan khiên đành cam chịu như lời Virgile: “La femme est toujours un être inconstant et changeant” (Đàn bà luôn luôn là người nhẹ dạ và thay đổi).
Thời gian thấm thoát trôi qua với bao biến thiên tình đời và nhân thế. Giờ dây, bên bờ đại dương, trong bốn anh em, đêm đêm café tán ngẫu, thân quen với tác giả có chung cuộc tình ngang trái, nghe nhạc, nhắc lại kỷ niệm xa xưa như lời ca anh viết “cuộc tình nào không thương đau anh ơi, đừng trách nhau chi”!.
Anh đã ra đi biền biệt, lời ca nét nhạc vẫn còn để lại cho nhân thế thưởng thức. Tiếc rằng, thời gian qua, nhiều trung tâm sản xuất Cassette, CD, Video… không tôn trọng nhạc sĩ sáng tác, chỉ để tên ca sĩ, trong đó có nhiều nhạc phẩm của anh. Tiếng hát Xuân Thu với Ai Lên Xứ Hoa Đào, Anh Khoa qua Bài Thơ Hoa Đào, Hà Thanh trong Thuở Ấy Yêu Em, Tà Áo Tím, Jo Marcel với Lá Rụng Ven Sông… gắn bó với tình ca của Hoàng Nguyên qua năm tháng.
Mong một ngày nào đó, có muôn ngàn cánh Hoa Anh Đào phủ lên mộ anh, tưởng nhớ người nhạc sĩ tài hoa trong nghệ thuật nhưng gặp bao ngang trái trong cuộc đời.
Trong quá trình tìm tài liệu về nhạc sỹ Hoàng Nguyên, tác giả của “Ai lên xứ hoa đào” nổi tiếng, [dongnhacxua.com] bắt gặp một thông tin thú vị: ông chính là người anh và cũng là người thầy đã dìu dắt nhạc sỹ Nguyễn Ánh 9 bước vào con đường âm nhạc. Chúng tôi xin mạn phép đăng lại bài viết của nhạc sỹ Nguyễn Ánh 9.
Hoàng Nguyên vĩnh viễn ra đi đã gần phần tư thế kỷ, gửi lại cho đời không ít những tác phẩm đáng trân trọng, bởi nét nhạc tài hoa và ca từ thấm đậm, buồn man mác. Có lẽ trong long những người yêu nhạc sẽ mái mái vang vọng những giai điệu đầy kỷ niệm của thời kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp … “Nếu hiểu rằng anh đi vì lũ giặc tham tàn, thì em ơi, em chớ sầu thương chi ! Em thấy chăng khói súng của giặc thù còn mịt mùng và còn che khuất mờ …”. Nhạc sĩ Hoàng Nguyên đã viết ca khúc ‘Anh Đi Mai Về‘ này ở tuổi 20 tràn đầy nhiệt huyết trong bối cảnh cả dân tộc đang trường kỳ kháng chiến. Bài hát tức khắc được đón nhận nồng nhiệt và phổ biến rộng khắp. Hiếm có những nhạc sĩ trẻ xưa nay tìm được thành công dứt khoát ngay tác phẩm đầu tay của mình và nhanh chóng thành danh như anh.
Với tôi, Hoàng Nguyên như vẫn còn ở đâu đó quanh đây và những kỷ niệm với anh còn như mới hôm qua… Anh Hoàng Nguyên – Cao Cự Phúc của tôi. Tôi gặp anh lần đầu tiên cách nay hơn 40 năm, khi đang học Trường Yersin ở Đà Lạt, thành phố thơ mộng sau này đã đi vào các tác phẩm vượt thời gian của anh. Dạo đó, biết tôi là một chú học trò mê âm nhạc có chút năng khiếu, Hoàng Nguyên đã để tâm chăm sóc. Chủ Nhật hàng tuần, anh vào trường nội trú đón tôi ra ”nhà” anh chơi và ân cần truyền đạt cho tôi những kiến thức ban đầu về âm nhạc. “Nhà” anh ở thật ra chỉ là một căn phòng đơn sơ, trong khuôn viên Trường Bồ Đề Đà Lạt, nơi anh đang dạy Anh văn cho các lớp trung học. Một chiếc giường đơn, một bàn viết bằng gỗ thông và một cây đàn guitar treo trên vách. Thời gian đó, Hoàng Nguyên còn phụ trách các buổi phát thanh của Hội Phật giáo trên làn sóng Đà Lạt. Một hôm, tôi rất bất ngờ và hạnh phúc được anh “mời” tham gia ban nhạc phát thanh của anh. Đó là lần đầu tiên tôi bước vào “nghề ca nhạc”, năm 1956.
Năm đó, Hoàng Nguyên đang phác thảo ca khúc Bài Thơ Hoa Đào:
“Chiều nào dừng chân phiêu lãng, Khách đến đây thấy hoa đào vương lối đi…”
Tôi hân hạnh là người ái mộ đầu tiên được anh đàn và hát cho “nghe thử” những âm điệu lời ca lãng đãng sương khói núi đồi của Bài Thơ Hoa Đào. Tôi vẫn nhớ như vừa ra khỏi giấc mơ còn tươi rói: chúng tôi ngồi co ro trong căn phòng nhỏ của anh; bên ngoài trời cao nguyên xam xám và mưa nhỏ. Đằng kia, những cánh hoa đào vừa lìa cành theo cơn gió bất chợt … Hỏi “Chắc anh đã chọn Đà Lạt làm quê hương ?”. Đôi mắt u hoài sau cặp kính trắng của anh hình như chợt xa khuất hơn: “Không, anh chỉ ghé chân để tạm mưu sinh và tìm cảm hứng …”.
Vâng, Hoàng Nguyên chỉ “ghé chân” – như anh viết “dừng chân phiêu lãng” nơi phố núi mù sương này một quãng thời gian ngắn nhưng cũng đủ để anh viết nên hai ca khúc tiêu biểu về một vùng đất thơ mộng dễ yêu: Bài Thơ Hoa Đào và Ai Lên Xứ Hoa Đào, hai ca khúc bất hủ đã làm rung động trái tim nhiều thế hệ người yêu nhạc, mãi mãi gắn chặt nghệ danh của anh với địa danh nổi tiếng này.
“Ai lên xứ hoa đào, dừng chân bên hồ nghe chiều rơi. Nghe hơi giá len vào hồn người, chiều Xuân mây êm trôi. Thông reo bên suối vắng, lời dìu dặt như tiếng tơ …”
Bẵng đi một thời gian, chúng tôi gặp lại nhau ở Sài Gòn khảng đầu thập niên 70. Lúc ấy, tôi đã đi vào lĩnh vực ca diễn và Hoàng Nguyên đã bị động viên vào binh chủng Quân cụ chế độ cũ. Như một số các nghệ sĩ khác cùng thời, buổi sáng anh thường đến uống cà phê ở nhà Thanh Thế, đường Nguyễn Trung Trực. Nghe nói dạo đó tình cảm gia đình anh gặp chuyện không vui. Anh trở nên u uất hẳn và có lẽ vì thế anh đã rất thích bài hát Summertime có âm sắc blues-jazz trầm mặc đang thịnh hành và được phát thường xuyên ở nhà hàng Thanh Thế. Tác phẩm Cho Người Tình Lỡ của anh ra đời khoảng thời gian đó, chịu phần nào âm hưởng khắc khoải của Summertime.
“Nhớ mà chi, đau thương qua rồi Thương mà chi, xót xa cũng đắng cay…”
Năm 70, bài Không của tôi được Khánh Ly thu vào đĩa 45 vòng do Hàng đĩa Tình Ca Quê Hương sản xuất, mặt sau có bài Cho Người Tình Lỡ do Thanh Lan hát. Ngày hãng đĩa trao tặng đĩa hát nói trên cho chúng tôi, Hoàng Nguyên thân mật vỗ vai tôi, thì thầm:”Mau quá Ánh hỉ ? Mới ngày nào ở Đà Lạt, anh em mình nói chuyện âm nhạc nhập môn, bây giờ Ánh đã có bài thu đĩa với anh…”. Vẫn là ngôn phong của một người anh ân cần, trìu mến ! Hoàng Nguyên còn để lại một tác phẩm khác, được yêu mến không kém các ca khúc đã có của anh, mà anh viết về xứ Huế, quê anh: Tà Áo Tím.
“Một chiều lang thang bên dòng Hương Giang Tôi đã gặp một tà áotím, nhẹ thấp thoáng trong nắng vương Mầu áo tím sao luyến thương…”
Hoàng Nguyên đột ngột chia tay với không gian âm nhạc của chúng ta một buổi sáng năm 1973 trong một tai nạn giao thông khi anh từ Vũng tàu trở về Sài Gòn. Ở độ tuổi 50 chín muồi rung động và từng trải cuộc đời. Tôi thầm nghĩ, nếu Hoàng Nguyên chưa vội ra đi chắc chắn ca mục của anh sẽ còn nối tiếp bằng những ca khúc dịu dàng, thanh thoát trong đó nỗi u hoài được nâng lên thành những vần thơ trong vắt…
Đà Lạt có lẽ là một trong những địa danh được ưu ái nhất trong dòng nhạc xưa. Nổi bật trong số rất nhiều tác phẩm về thành phố cao nguyên là bản “Ai lên xứ hoa đào” của nhạc sỹ Hoàng Nguyên. Nhạc sỹ Hoàng Nguyên sinh năm 1932 tại Quảng Trị và mất năm 1973 tại Vũng Tàu trong một tai nạn xe hơi. Chúng tôi không có thông tin về hoàn cảnh sáng tác của bản “Ai lên xứ hoa đào” nhưng chắc rằng những năm tháng dạy học tại Đà Lạt vào thập niên 1950 đã tạo niềm càm hứng cho nhạc sỹ Hoàng Nguyên cho ra đời tác phẩm này.
Đà Lạt, cũng giống một vài đô thị ở Việt Nam, là một trong những vùng đất được rất nhiều nhạc sỹ yêu mến và bởi vậy, rất nhiều ca khúc hay viết về nơi này. Một trong những nhạc sỹ viết về Đà Lạt hay nhất, ấn tượng nhất là Hoàng Nguyên, người nhạc sỹ tài hoa đoản mệnh.
Những ca khúc tuyệt vời ông viết về Đà Lạt được sinh ra chính trong thời gian nhạc sỹ gắn bó với thành phố mù sương, trong tuổi hoa niên tươi đẹp, lãng mạn của chàng thanh niên Hoàng Nguyên.
Nhạc sỹ Hoàng Nguyên tên thật là Cao Cự Phúc, sinh ra ở Quảng Trị vào năm 1932. Theo nhiều thăng trầm của cuộc sống, đầu những năm 1950 ông lên Đà Lạt dạy học ở trường Bồ Đề. Chính những năm gắn bó với nghề gõ đầu trẻ, ông đã có thời gian thỏa mãn thú đam mê âm nhạc của mình. Ca khúc đầu tiên của ông viết về Đà Lạt là ca khúc Bài thơ hoa đào. Có lẽ bởi tới từ vùng đất khô nóng, lần đầu tiên chạm mặt vào hơi sương lạnh, ngắm nhìn màu hoa đào mơ màng, rực rỡ, Hoàng Nguyên đã bật ra xúc cảm để viết những ca từ ca ngợi loài hoa đặc trưng nhất của phố sương: hoa đào.
Chiều nào dừng chân phiêu lãng Khách đến đây thấy hoa đào vương lối đi
Nhưng dù cảm hứng được nảy sinh từ hoa hay sương, nó vẫn không khỏi gắn với tuổi xuân, với tình yêu, với những dáng thiếu nữ áo dài xinh đẹp của phố núi.
Màu hoa in dáng trời Tình hoa in dáng người
Sau một vài năm sống và dạy học ở Đà Lạt, Hoàng Nguyên đã tích đủ tình yêu, sự gắn bó và cảm hứng để viết lên một trong những ca khúc tuyệt vời nhất, ca khúc mà dường như ai cũng biết về Đà Lạt: Ai lên xứ hoa đào. Chắc hẳn rằng, trái tim đôi mươi dâng tràn nhựa sống, tình yêu của chàng trai trẻ mang tâm hồn nhạc sỹ đã vang lên những lời thúc giục, đòi hỏi thốt lên những lời tình nồng nàn. Ngay từ những lời đầu tiên, những nốt nhạc đầu tiên được cất lên, một Đà Lạt mơ huyền, lãng mạn, một Đà Lạt mang đậm “chất Đà Lạt” đã hiện ra trong lòng người nghe.
Ai lên xứ hoa đào dừng chân bên hồ nghe chiều rơi Nghe hơi giá len vào hồn người, chiều xuân mây êm trôi Thông reo bên suối vắng lời dìu dặt như tiếng tơ
Ca từ tuyệt đẹp, giai điệu nhẹ nhàng, ngọt ngào đã mang lại cho “Ai lên xứ hoa đào” một vị trí đặc biệt trong lòng người Đà Lạt, người yêu Đà Lạt và làng âm nhạc Việt. Và dù bài hát đã ra đời quá nửa thế kỷ, mỗi khi nhắc tới Đà Lạt, không ai có thể không nhớ tới ca khúc tuyệt vời ấy.
Không chỉ có “Ai lên xứ hoa đào” và “Bài thơ hoa đào” viết cho Đà Lạt, Hoàng Nguyên còn “Đà Lạt mưa bay” dành cho phố núi. “Đà Lạt mưa bay” vẫn mang dáng dấp một Hoàng Nguyên tài hoa, đa tình với những dáng hình thiếu nữ dịu dàng “Sương mù chiều vương trên làn tóc rối”.
Đà Lạt trong ca khúc Hoàng Nguyên quen mà lạ. Quen bởi những gì ông nhắc tới đều là những điều đặc trưng nhất của phố núi, là sương, là hoa, là thông, là tà áo dài thấp thoáng trong sương. Lạ bởi những hình ảnh thân quen ấy được nhìn qua lăng kính một tâm hồn lãng mạn, một “người phiêu lãng” như ông tự nhận về mình. Ca từ lãng mạn, âm nhạc của ông cũng không khác, nhẹ nhàng, ngọt ngào, tha thiết như một lời tự sự. Giữa tuổi hoa niên cháy bỏng, ông đã trao hết tài năng thiên phú vào những ca khúc dâng tặng thành phố mù sương, nơi ông neo bước trên đường lữ hành xa tít.
Năm 1956, bởi những biến cố bất ngờ Hoàng Nguyên rời Đà Lạt và dường như, theo lời nhạc sỹ Nguyễn Ánh 9, người em và là học trò thân thiết của ông, người được ông dìu dắt trong thời gian dạy học ở trường Bồ Đề, ông ít có dịp quay lại phố núi. Nhưng tình yêu trong ông dành cho thành phố mù sương, nơi lưu giữ những kỷ niệm đẹp nhất thuở hoa niên thì không bao giờ phai nhạt. Vẫn thoảng đâu đó trong những ca khúc ông viết trong hoàn cảnh khác, tâm trạng khác chút mơ màng của phố núi. Ông ra đi rất sớm trong một tai nạn, khi tuổi chưa chớm 50, dừng lại quãng đời phiêu du trong cuộc đời và trong âm nhạc. Năm 2013 là tròn 40 năm ngày Hoàng Nguyên lìa xa cõi thế nhưng những ca khúc của ông còn mãi. Và nhất là, khi dâng lên câu hát “Ai lên xứ hoa đào”, người Đà Lạt không quên Hoàng Nguyên cũng như hàng triệu trái tim yêu âm nhạc không quên ông, người nhạc sỹ đã dành cho Đà Lạt những ca khúc tuyệt vời.