Dù không sinh ra ở Hà Nội nhưng trải qua thời niên thiếu và cả một quãng đời tuổi trẻ ở đất Hà Thành, Phú Quang yêu và hiểu dải đất dọc sông Hồng như một đứa con tinh thần. Và vì thế, Hà Nội cũng là một chủ đề chiếm tỷ trọng đáng kể trong gia tài sáng tác đồ sộ của nhà nhạc sỹ. DòngNhạcXưa xin giới thiệu một bài viết của của tác giả Cát Linh đăng trên rfa.org để người yêu nhạc có cái nhìn thêm về “Hà Nội trong dòng nhạc Phú Quang”.
Chương trình âm nhạc tuần trước, Cát Linh đã giới thiệu các bài hát về mùa thu Hà Nội, cảm nhận thời khắc đẹp nhất của mùa thu Hà Nội qua những bản nhạc được sáng tác bởi nhiều nhạc sĩ. Trong đó, có Phú Quang, người nhạc sĩ đã thốt lên rằng ở Việt Nam, không có nơi nào có mùa thu đẹp như ở Hà Nội. Hôm nay, xin mời quí vị theo dõi những chia sẽ của Phú Quang về triết lý sáng tác của mình, và hiểu vì sao Hà Nội là người tình muôn thưở trong nhạc phẩm của ông.
Hà Nội là quê hương
“Chiều đông sương giăng phố vắngHàng cây lặng câm, hát câu mặc trầmTa còn chờ ai, nhạt phai sắc nắngHeo mây tan nhoà, bao giấc mơ xưa….” (Lãng đãng chiều đông Hà Nội)
Tiếp nối dòng nhạc về mùa thu, [dongnhacxua.com] xin giới thiệu bản “Đâu phải bởi mùa thu” của nhạc sỹ Phú Quang, phỏng theo ý thơ của nhà thơ nữ Giáng Vân.
BÀI THƠ “YÊN TĨNH” CỦA GIÁNG VÂN (Nguồn: thica.net)
Mặt trời trưa đã quá đỉnh đầu Vách đá chắn ngang điều muốn nói Em ru gì cho đá núi Đá núi trụi trần vết tạc của thời gian Em ru gì cho dòng sông Dòng sông chẳng khi nào ngừng lặng Sóng cuộn lên nỗi khát khao vô bờ Sóng rất biết nơi mình đi và đến
Em ru gì cho anh Mặt trời linh thiêng mặt trời giông tố Đã mệt mỏi rồi đã bao nỗi âu lo Trên gương mặt anh hằn lên nỗi khổ Khiến câu hát cất lên bỗng tắt nửa chừng Em yêu anh như yêu cuộc đời cực nhọc Có tuổi thơ em buồn bã dịu dàng Sáng lung linh vầng ánh sáng thiên thần Niềm hạnh phúc muôn đời có thật Xin đừng trách em nhiều Cũng xin đừng day dứt Cây lá có rơi nhiều xin đừng hỏi mùa thu Lặng nghe anh Yên tĩnh – lời ru
Ít ai biết rằng, “Đâu phải bởi mùa thu” – một trong những ca khúc về mùa thu hay nhất của nhạc sĩ Phú Quang từng bị “tuýt còi” 10 năm trời trước khi được chính thức đưa ra biểu diễn.
Mùa thu Hà Nội – lãng mạn và đầy chất thơ đã in dấu trong không biết bao nhiêu tác phẩm thi ca và tình khúc của các nhạc sĩ. Trong kho tàng ca khúc kếch sù lên đến vài trăm ca khúc của nhạc sĩ Phú Quang, những bài hát về mùa thu vẫn đẹp hơn hết, luôn để lại những ấn tượng sâu sắc nhất trong lòng người yêu nhạc.
Phú Quang từng tâm sự, ông có một nguyên tắc bất dịch là không bao giờ sáng tác theo đơn đặt hàng, ông sáng tác đơn giản chỉ vì “thích và thấy cần phải viết”, vì xuất phát từ những rung động, xúc cảm của bản thân, từ những trải nghiệm cuộc đời, từ những tình yêu có thật và cả ảo tưởng… Bởi thế mà mỗi tác phẩm của ông đều gắn với một hoàn cảnh, một tâm trạng nhất định, không ca khúc nào giống ca khúc nào.
Là một người có biệt tài về phổ nhạc cho thơ, rất nhiều bài thơ được khoác lên mình một “giai điệu” khác khi thành ca từ của Phú Quang. Ông không phổ nguyên bài mà thường chọn những ý hay nhất, tinh túy nhất của bài thơ để viết nhạc. Và xuất phát từ những ý thơ trong bài thơ “Yên tĩnh” của nhà thơ Giáng Vân, nhạc sĩ Phú Quang đã sáng tác nên một bản tình ca bất hủ mang tên “Đâu phải bởi mùa thu”.
Ca khúc được nhạc sĩ sáng tác năm 1976, viết cho người tình đầu tiên ở Sài Gòn, đã vượt biên năm 1977. Nếu như với nhà thơ Giáng Vân, bài thơ kể về tâm trạng một người vợ ở hậu phương khắc khoải về người chồng nơi biên cương thì câu chuyện của nhạc sĩ Phú Quang lại mang một ý nghĩa hoàn toàn khác. Thông điệp mà Phú Quang tự gửi tới mình và cả những ai đang yêu, đã yêu và chia ly qua “Đâu phải bởi mùa thu” là: “Đừng nghĩ chia li là do lỗi của một người. Tình yêu có lý lẽ riêng của nó. Có thể lỗi ở cả hai người, cũng có thể không bởi tại ai mà chỉ do hoàn cảnh, số phận xô đẩy. Đừng buồn bã, giày vò nhau vì những chia xa…”.
Mùa thu đẹp nhưng buồn, những chiếc lá vàng rơi xuống là biểu tượng của mùa thu nhưng có đôi khi lá vàng rơi cũng chẳng phải do mùa thu, mùa nào cũng có cái niềm riêng, thế nên mới có “Lá trút rơi nhiều đâu phải bởi mùa thu”. Phú Quang là vậy, trong nỗi buồn sâu lắng vẫn ánh lên niềm tin yêu trong cuộc sống, thúc giục người ta cố gắng kiếm tìm những khoảng trống trong tâm hồn để lấp đầy nó bằng niềm tin mãnh liệt.
Tuy nhiên, ít ai biết rằng, hành trình của những ca từ lãng mạn, âm thanh khắc khoải như một món quà dành cho người, cho đời ấy phải trải qua một hành trình dài tới 10 năm mới được chính thức đến gần với công chúng.
Nhạc sĩ Phú Quang kể, vào thời điểm ra đời, ca khúc này từng bị đặt nghi vấn bởi những ca từ “đầy ẩn ý”: “câu hát ngân lên bỗng tắt nửa chừng, thôi đừng hát ru… thôi đừng day dứt…, lá trút rơi nhiều đâu phải bởi mùa thu”. “Đâu phải bởi mùa thu” từng bị đem ra mổ xẻ tại 3 cuộc họp vì cho rằng mùa thu ở đây là ám chỉ cách mạng, với những lời buồn bã, dã đám…
“Sau cuộc họp, tôi có nói đùa với các anh ấy như thế này, tôi thương các anh quá, phí mất 3 ngày trời và cả ngân sách của dân chỉ để bàn một chuyện không đâu. Nếu các anh cứ nói là mùa thu đồng nghĩa cách mạng, ai chê mùa thu thì anh bảo chê cách mạng. Nhưng các anh đã nhầm vì cách mạng chỉ sinh ra vào mùa thu, chứ không phải là cách mạng sinh ra mùa thu. Và nếu nói mùa thu là cách mạng thì tôi phải được khen thưởng mới đúng vì tôi bênh cách mạng đến thế là cùng: “lá rơi xuống rồi mà vẫn không phải bởi mùa thu”…
Tôi còn nhớ, 7 năm sau khi tôi viết biết hát, một hôm có anh bạn chỉ huy tính tình rất tốt, thật thà nói nhỏ với tôi. Phú Quang này, hôm nay mình đã rất can đảm… Hỏi có chuyện gì mà rất can đảm, thì anh ấy bảo: Mình đã cho dựng bài “Đâu phải bởi mùa thu” của cậu cho anh em biểu diễn!. Tôi chỉ buồn cười về cái sự ngây ngô của anh bạn, nhưng cũng không thể trách được bởi đó là thực tế của một thời kì ấu trĩ nên khó tránh khỏi có những hiểu lầm”, nhạc sĩ Phú Quang hài hước kể lại.
10 năm sau ngày ra đời, “Đâu phải bởi mùa thu” mới được chính thức giới thiệu đến công chúng. Đến hôm nay, trải qua những thăng trầm thời gian, những giai điệu mượt mà, sâu lắng của “Đâu phải bởi mùa thu” đã trở thành một trong những tình khúc bất hủ của nhạc sĩ Phú Quang.
Những ngày đầu tháng 12, trời Hà Nội trở lạnh. Chúng tôi có dịp lang thang trên những con phố Hà Nội. Những cảm xúc về một “Em ơi, Hà Nội phố” như ùa về. [dongnhacxua.com] xin giới thiệu đến người yêu nhạc xưa bài thơ nổi tiếng của Phan Vũ, cũng như bản phổ tuyệt vời của nhạc sỹ Phú Quang.
TTCT – Ngày 25-9 tại Hà Nội, Em ơi, Hà Nội phố – sau “gần nửa thế kỷ ra đời nhưng vẫn chưa trở về Hà Nội” như lời tác giả, đã được nhà thơ Phan Vũ đọc lần đầu tiên trong đêm thơ tổ chức cho riêng ông ở Thư viện Hà Nội. TTCT giới thiệu bài viết của nhà thơ về cuộc hành trình gần 50 năm của Em ơi, Hà Nội phố và trích đăng một số khổ của bài thơ.
Tôi viết Em ơi, Hà Nội phố từ năm 1972 nhưng trong một thời gian dài, vì những lý do riêng, bài thơ chưa đến với độc giả. Cho đến năm 2009, nguyên tác bài thơ mới in trong tập Thơ Phan Vũ. Ở Huế, tôi đã đọc bài thơ dưới ánh sáng của một ngọn nến, trong một căn nhà cổ cho một số bạn Huế yêu thơ. Ở Sài Gòn, tôi đã đọc tại quán Guitare Gỗ do nhạc sĩ Châu Đăng Khoa đệm đàn và viết một ca khúc phụ họa.
Như vậy là gần nửa thế kỷ bài thơ viết về Hà Nội, tại Hà Nội vẫn chưa trở về Hà Nội. Và tôi vẫn mong đợi một dịp được lần đầu đọc Em ơi, Hà Nội phố giữa thủ đô.
***
Tháng chạp năm 1972, khi B-52 của Mỹ bắn phá thủ đô với lời hăm he “đưa Hà Nội trở lại thời kỳ đồ đá!”, tôi khởi viết những câu đầu tiên: Em ơi, Hà Nội phố… Ta còn em, mùi hoàng lan, ta còn em mùi hoa sữa… Điệp từ Ta còn em, ta còn em… được lặp lại trong từng đoạn của bài thơ. Có người nghĩ điệp từ này có ý nghĩa thách thức với lời hăm dọa của ông Nixon. Tôi không có ý đó, chỉ thấy lòng mình chùng xuống vì âu lo trước cảnh tượng đất đai Hà Nội bị bom đạn cày xới và máu người Hà Nội đổ trên phố phường nên đọc một câu “niệm chú” để tự trấn an. Ta còn em… là còn những hoài niệm yêu thương của tôi về Hà Nội mà đôi lần khi trong trạng thái cần nương tựa, an ủi, tôi lại tìm về.
Nhưng Em ơi, Hà Nội phố không phải là một lời thủ thỉ tự tình, đó là một tiếng kêu thương tha thiết… Tháng chạp bi tráng năm ấy, những sự việc hằng ngày đã khắc ghi những đường rãnh trong ký ức, giữ lại cho con người một nỗi nhớ xót xa, sâu đậm. Chỉ một đêm xuống phố Khâm Thiên sau trận bom, nghe tiếng than khóc của dân phố, nhìn những vành khăn tang trắng xóa trong đêm và ngửi mùi hương cúng đã hình thành ngay hoài niệm để một đời không thể nào quên.
Tôi cũng phải nói thêm điệp từ Ta còn em… còn có nghĩa “ta mất em…”. Đó là sự tiếc nuối về những gì “thật Hà Nội” không còn nữa! Không chỉ do chiến tranh mà có thể vì những sai lầm, những vô ý, vô tình của người đời, không ngoại trừ sự quên lãng của thời gian, đã gây ra những đổ vỡ không thể hàn gắn được. Chỉ cần mấy câu thơ của người xưa Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo, nền cũ lâu đài bóng tịch dương… cũng làm chúng ta rung động huống hồ những xót đau, mất mát thuộc về tâm linh, một thứ để thờ phụng, khiến con người có thể thí mạng để bảo vệ, gìn giữ. Và tinh thần của người Hà Nội trong tháng chạp năm ấy đã chứng tỏ rõ ràng.
Tôi đã sống một mình trên căn gác suốt 12 ngày đêm khốc liệt của Hà Nội. Bao hoài niệm thật đẹp mà tôi đã có trong quãng thời gian được gọi là “chàng trai Hà Nội” đã trở về trên căn gác, tại một khu trắng triệt để sơ tán vì gần Nhà máy điện Yên Phụ, một mục tiêu oanh kích. Những hình ảnh, những ngôn từ dồn dập kéo đến, đan xen, chồng chéo, không theo một thứ tự thời gian, không gian.
Tôi như đang trong một giấc mơ giữa ban ngày với đôi mắt mở! Em ơi, Hà Nội phố với 25 khổ thơ đã ra đời trong khoảng cách những hồi còi hụ trên nóc Nhà hát Lớn, với giọng Hà Nội thật chuẩn của cô phát thanh viên báo tin những đợt B-52 vào thành phố. Tôi ghi lại một cách vội vàng, theo sự tình cờ, bất chợt, không xếp đặt. Tất nhiên, trong một quá trình dài dặc nửa thế kỷ, bài thơ không thể nằm yên trong ngăn kéo mà luôn cựa quậy, bắt tôi phải chỉnh sửa nhiều lần. Nhiều khi có vài ly rượu ngà ngà lại chợt nhớ, chợt thương một nỗi niềm, chợt tìm thấy một dáng, một hình, một con chữ cần thêm, cần bớt.
Tôi cũng thường bỏ công chép cả bài thơ dài dặc để tặng ai đó, nhưng khi khách ra về lại hí hoáy sửa lại vì trong lúc chép tặng chợt phát hiện một câu, một chữ chưa vừa ý. Do đó Em ơi, Hà Nội phố đã thành tam sao thất bản, đến mức tác giả cũng không sao phân biệt được!
Cho đến năm 1985, một lần gặp Phú Quang, một đoạn thơ đã được phổ nhạc. Khi ca khúc Em ơi, Hà Nội phố đã nổi tiếng với nhiều khen tặng, có người đến nói về giá trị phần ca từ của tôi, nhưng tôi vẫn nghĩ sự xứng đáng thuộc về Phú Quang với những giai điệu mượt mà, du dương quen thuộc của anh; cả về công lao của Phú Quang với ca khúc ấy đã giới thiệu một bài thơ còn lận đận, chưa ra đời! Mấy câu thơ của tôi, một tâm tư mang tính cá nhân, là nỗi đau thầm lặng, nỗi buồn da diết riêng mang không có tính cộng đồng.
Ngày ấy, có một nhà thơ lớn khi đọc bài thơ này đã thật lòng khuyên tôi không nên phổ biến vì có thể chuốc vạ vào thân. Tôi cũng mệt mỏi vì nhiều sự phiền hà văn chương của giai đoạn ấy nên cũng nghe lời bỏ xó.
***
Tôi hi vọng lần đọc đầu tiên bài thơ ở Hà Nội cũng là đọc bản chính thức cuối cùng của Em ơi, Hà Nội phố. Bởi với tuổi 85, hành trình đi qua trần gian, hay nói theo Trịnh Công Sơn là quãng đời “ở trọ trần gian” của tôi cũng đã quá dài so với bao nhiêu bè bạn. Giữa Hà Nội hôm nay bỗng nhiên tôi nghĩ đến những nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, họa sĩ cùng đứng với tôi trong ban chấp hành đầu tiên của Chi hội Văn nghệ Nam bộ thành lập từ năm 1952 giữa rừng U Minh, như các anh Diệp Minh Châu, Hà Mậu Nhai, Đoàn Giỏi, Quách Vũ, Dương Tử Giang, Huỳnh Văn Gấm, Chi Lăng, Ngọc Cung, Trương Bỉnh Tòng…
Trong số đó, có người tập kết ra Hà Nội đã nằm lại trong lòng đất thủ đô, những người ở lại miền Nam bị bắt bớ, tù đày cũng đã qua đời. Các anh ấy chỉ biết Hà Nội trong tưởng tượng, càng không thể hình dung có một Hà Nội của thơ như hôm nay với người cuối cùng còn sót lại của ban chấp hành xa xưa trở về Hà Nội đọc thơ!
Tôi cũng nghĩ tới những người bạn đã kết thân khi tôi từ miền Nam trở về Hà Nội năm 1956, đó là các anh Tử Phác, Đặng Đình Hưng, Trần Dần, Lê Đạt, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng, Dương Bích Liên, Phùng Quán, Phùng Cung, Hoàng Cầm, Hữu Loan… tất cả các anh ấy đều có một số phận không may và đã lần lượt kéo nhau ra đi về “Bến lạ” (tên một tập thơ của Đặng Đình Hưng). Và tôi lại trở thành một trong những kẻ sống sót để thụ hưởng những gì mà đáng lẽ các anh ấy đều được hưởng!
“Những năm đầu tiên tôi mới vào Sài Gòn, một buổi ngồi nói chuyện với nhà thơ Phan Vũ ở sân Nhà văn hóa quận 3, được anh đọc cho nghe một bài thơ. Nghe xong tôi nói với anh rằng tôi cảm giác bài thơ này có thể phổ nhạc được nhưng lúc ấy chưa định là sẽ phổ ra sao. Ngay tối hôm đó tôi đã viết “Em ơi, Hà Nội phố” trong nỗi nhớ của những ngày xa Hà Nội. Viết xong, hát cho anh Phan Vũ nghe, anh bảo âm nhạc đã làm cho bài thơ lung linh lên.
Lần đầu tiên bài hát được lên sóng phát thanh là năm 1987 với giọng hát của ca sĩ Lệ Thu. Cũng rất lạ, trước đấy Lệ Thu hát khá nhiều bài hát của tôi trên sân khấu kịch, có một lần cô ấy nói: “Sao anh chẳng cho em hát bài nào trên đài nhỉ”. Tôi đưa bài hát ấy cho Thu, nó vừa vặn và hợp với giọng hát cô ấy đến độ tưởng như bài hát ấy tôi “đo ni đóng giày” cho Thu. Sau này có nhiều người hát hay và thành công ca khúc này nhưng khán giả nói không ai hát hay hơn Lệ Thu lần đầu tiên ấy.
Tuy nhiên, bài hát cũng có số phận khá đặc biệt, đó là suýt nữa thì không được phát hành, và khi Nhà xuất bản Dihavina phát hành lần đầu thì bài Em ơi, Hà Nội phố đứng khiêm tốn ở mặt B trong danh mục ca khúc. Nhưng thật may là khán giả đã ưu ái và bài hát vẫn được nhiều người biết đến. Hơn nữa, bài hát này cũng mang đến cho tôi giải thưởng đầu tiên trong đời về âm nhạc”.
NGUYÊN VĂN BÀI THƠ “EM ƠI, HÀ NỘI PHỐ” CỦA PHAN VŨ
Em ơi! Hà – Nội – phố… Ta còn em mùi hoàng lan Ta còn em mùi hoa sữa. Tiếng giày ai gõ nhịp đường khuya? Cọt kẹt bước chân quen Thang gác Thời gian Mòn thân gỗ Ngôi sao lẻ lạc vào căn xép nhỏ…
Ta còn em chấm lửa Xập xòe Kỷ niệm… Một con đường Một ngôi nhà Khuôn mặt ai Dừng trong khung cửa… Những phong thư bỏ quên trong hộc tủ Không tên người, Không tên phố. Người gửi không tên. Ta còn em chút vang động lặng im, Âm âm tiếng gọi Trong lòng phố…
Em ơi! Hà – Nội – phố… Ta còn em một gốc cây, Một cột đèn Ai đó chờ ai? Tóc cắt ngang Xõa xõa bờ vai, Khung trời gió Con đường như bỏ ngỏ…
Ta còn em khăn choàng màu tím đỏ Thoáng qua Khuôn mặt chưa quen Bỗng xôn xao nỗi khổ Mỗi góc phố một trang tình sử.
Em ơi! Hà – Nội – phố… Ta còn em chuỗi cười vừa dứt Chút nắng còn le lói vườn hoang, Vàng ngọn cỏ. Cô gái khẽ buông rèm cửa, Anh chàng lệch mũ đi qua, Lời tỏ tình đêm qua dang dở… Ta còn em ngày vui cũ, Tàn theo mùa hạ. Tiếng ghita bập bùng tự sự, Đêm kinh kỳ thuở ấy xanh lơ…
Em ơi! Hà – Nội – phố… Ta còn em vầng trăng nửa Người phu xe đợi khách bến đầu ô. Tiếng rao đêm lạc giọng Ơ hờ… Căn gác trọ đường vào bằng cửa sổ Lão Mozart hàng xóm Bảy nốt cù cưa. Từng đêm quên giấc ngủ…
Ta còn em cây dương cầm Trong khung nhà đổ Lả tả trên thềm Bettho và sonate Ánh Trăng. Nốt nhạc thiên tài lẫn trong mảnh vỡ… Cô gái áo đỏ Venise Xa Hà Nội, Vẽ clavecin, Tập đàn Trên phản gỗ…
Ta còn em, một đêm lộng lẫy, Những tràng pháo tay vang dậy Cô gái dương cầm đứng giữa rừng hoa, Nước mắt lã chã trên tà áo đỏ Rồi một ngày tả tơi, Loạn gió Vườn Ngọc Hà Mất một mùa hoa. Đường Quan Thánh Bản giao hưởng ”Lặng Câm” Trong một ngôi nhà…
Ta còn em một đam mê, Một vật vã, Một dang dở, Một trống không, Một kiếp người, Những phím đàn long…
Em ơi! Hà – Nội – phố… Ta còn em ráng đỏ chiều hôm. Đôi chim khuyên gọi nhau trong bụi cỏ. Đôi guốc bỏ quên bên ghế đá Gã đầu trần thơ thẩn đường mưa…
Ta còn em một tên thật cũ Cổ Ngư Chiều phai nắng Cành phượng vĩ la đà Bông hoa muộn in hình ngọn lửa. Chiếc lá rụng Khỏi đầu nguồn gió Lao xao sóng biếc Tây Hồ Hoàng hôn xa đến tự bao giờ? Những bước chân tìm nhau Vội vội. Cuộc tình hờ bỗng chốc nghiêm trang…
Em ơi! Hà – Nội – phố… Ta còn em ngọn gió Nghi Tàm Thoáng mùi sen nở muộn. Nhớ Nhật Tân Mùa hoa năm ấy Cánh đào phai. Người dẫu ra đi vạn dặm dài. Gió ngọn vẫn vương hương phố cũ…
Em ơi! Hà – Nội – phố… Ta còn em cơn mưa rào qua nhanh Ướt bậc thềm Chiếc lá bàng đầu tiên nhuộm đỏ. Cô gái vội sang đường Chợt hồng đôi má. Một chút xanh hơn Trời Hà Nội Hôm qua… Ta còn em cô hàng hoa Gánh mùa thu qua cổng chợ Những chùm hoa tím Ngát Mùa thu…
Em ơi! Hà – Nội – phố… Ta còn em con đê lộng gió Dòng sông chảy mang hình phố. Cô gái dựa lưng bên gốc me già Ngọn đèn đường lặng thinh Soi bờ đá…
Ta còn em mùa nước đổ Mất tăm bãi Giữa Dòng sông Hồng Bè nứa xuôi nhanh, Con tàu nhổ neo, về bến. Hồi còi vọng Như một tiếng than dài: “Mùa này trăng vỡ trên sông”…
Ta còn em hàng cây khô, Buồn như dãy phố. Người bỏ xứ Quay nhìn lần cuối Đôi mắt nhòe với hạt sương tan “Người đi, ừ nhỉ, người đi thực!”… (1) Ly khách khẽ ngâm câu tống biệt Đành đoạn một lần dứt áo xanh.
Em ơi! Hà – Nội – phố… Ta còn em một Hàng Đào. Không bán đào. Một Hàng Bạc Không còn thợ bạc. Đường Trường Thi Không chõng, không lều Không ông nghè bái tổ vinh quy.
Ta còn em ngày đi Một nỗi mang tên nhớ. Ngày về phố cũ bỗng quên tên. Quên bậc đá, Quên mái hiên. Quên cây táo trồng ngay trước cửa. Thuở ấu thơ thỏa thích leo trèo… Ngày về ra rả tiếng ve Võng trưa hè kẽo kẹt “À ơi! Tùng tùng trống đánh ngũ liên Bước chân xuống thuyền Nước mắt như mưa…” Bài tập đọc Quốc văn giáo khoa thư Bà ru cháu ngủ Người về sững sờ bên cánh cửa, Tiếng ơi à… Gợi lại mảnh đời quên.
Em ơi! Hà – Nội – phố… Ta còn em chiếc xe hoa Qua hàng liễu rủ Cánh tay trần trên gác cao Mở cửa. Mùa xuân trong khung Đường phố dài Chi chít chồi sinh Màu ước vọng in hình xanh nõn lá Giò phong lan. Điệp vàng rực rỡ. Những gót son dập dìu đại lộ Bờ môi ai đậm đỏ bích đào?
Ta còn em tiếng trống tan trường. Màu thanh thiên lẫn trong liễu rủ Đêm hoa đăng tà áo nhung huyết dụ. Đất nghìn năm còn mãi dáng kiêu sa. Phường cũ lưu danh người đẹp lụa. Bậc thềm nào in dấu hài hoa?
Em ơi! Hà – Nội – phố… Ta còn em đường lượn mái cong Ngôi chùa cổ Năm tháng buồn xô lệch ngói âm dương. Ai còn ngồi bên gốc đại già? Chợt quên vườn hồng đã ra hoa. Chợt quên bên đường ai đứng đợi… Cuộc đời có lẽ nào Là một thoáng bâng quơ!