Sau cuộc đại di cư 1954, rất nhiều tinh hoa văn hóa của miền Bắc như bắt gặp được môi trường cởi mở, hiền hòa của miền Nam nói chung và Sài Gòn nói riêng nên đã phát triển mạnh mẽ và hòa lẫn vào nền văn hóa chung của dân tộc. DòngNhạcXưa xin giới thiệu một bài viết của của tác giả Phạm Công Luận đăng trên Thanh Niên để người yêu nhạc hiểu thêm về đời sống tinh thần của một thời Hòn Ngọc Viễn Đông.
Những ngày giáp tết giữa thập niên 1950, người dân khu Hòa Hưng bắt gặp những cụ đồ già người bắc vừa di cư vào nam ngồi trên vỉa hè đường Chason (Phạm Hồng Thái) gần chợ Hòa Hưng. Họ bày bán những liễn đối chữ Hán viết sẵn trên giấy điều.
Dù không sinh ra ở Hà Nội nhưng trải qua thời niên thiếu và cả một quãng đời tuổi trẻ ở đất Hà Thành, Phú Quang yêu và hiểu dải đất dọc sông Hồng như một đứa con tinh thần. Và vì thế, Hà Nội cũng là một chủ đề chiếm tỷ trọng đáng kể trong gia tài sáng tác đồ sộ của nhà nhạc sỹ. DòngNhạcXưa xin giới thiệu một bài viết của của tác giả Cát Linh đăng trên rfa.org để người yêu nhạc có cái nhìn thêm về “Hà Nội trong dòng nhạc Phú Quang”.
Chương trình âm nhạc tuần trước, Cát Linh đã giới thiệu các bài hát về mùa thu Hà Nội, cảm nhận thời khắc đẹp nhất của mùa thu Hà Nội qua những bản nhạc được sáng tác bởi nhiều nhạc sĩ. Trong đó, có Phú Quang, người nhạc sĩ đã thốt lên rằng ở Việt Nam, không có nơi nào có mùa thu đẹp như ở Hà Nội. Hôm nay, xin mời quí vị theo dõi những chia sẽ của Phú Quang về triết lý sáng tác của mình, và hiểu vì sao Hà Nội là người tình muôn thưở trong nhạc phẩm của ông.
Hà Nội là quê hương
“Chiều đông sương giăng phố vắngHàng cây lặng câm, hát câu mặc trầmTa còn chờ ai, nhạt phai sắc nắngHeo mây tan nhoà, bao giấc mơ xưa….” (Lãng đãng chiều đông Hà Nội)
Nói đến nhạc sỹ Thanh Sơn, người yêu nhạc thường nhớ đến những sáng tác đặc sắc của ông viết cho tuổi học sinh. Thế nhưng bên cạnh những bản cho một thời tuổi xanh, nhà nhạc sỹ bình dị xuất thân từ vùng quê Sóc Trăng còn có nhiều bài hát về tình tự dân tộc có giá trị. DòngNhạcXưa xin giới thiệu một bài viết của của tác giả Cát Linh để chúng ta cùng nhìn lại đôi nét về dòng nhạc Thanh Sơn.
Có một người nhạc sĩ, mà khi nhắc đến ông, người ta nghĩ đến những ca khúc về mùa hè dành cho tuổi học trò, với hình ảnh của hoa phượng, của những dòng lưu bút. Không chỉ thế, ông còn là một nhạc sĩ sáng tác rất nhiều những ca khúc về tình yêu quê hương, mang đậm chất miền Tây Nam Bộ. Mời quí vị cùng nghe lại những ca khúc bất hủ gắn liền với tên của ông, cố nhạc sĩ Thanh Sơn.
“Bài hát Hoa tím người xưa này là một chuyện tình có thật. Một kỷ niệm của đời tôi. Lúc đó vào năm 1965. Tình yêu của tôi rất tràn trề. Tuổi đời của tôi lúc đó ngoài 20. Tôi có quen với 1 người con gái, và chúng tôi có hẹn hò lên Đà Lạt, vào 1 vườn hoa tím rất đẹp. Chúng tôi tâm sự rồi sau đó chia tay. Hai năm sau, tôi trở lại cũng vườn hoa đó, mà người xưa thì không còn nữa. Tôi thẫn thờ, buồn, và thốt lên một câu ‘Người xưa hỡi thấu cho nỗi lòng hoa tím còn người đâu’.”
Đó là lời tâm tình của cố nhạc sĩ Thanh Sơn khi ông còn tại thế trong một buổi nhạc vinh danh ông được tổ chức trong nước. Tiếng nói trầm ấm, hiền hoà đậm chất miền Tây Nam Bộ của người nhạc sĩ làm cho người nghe phần nào hiểu được vì sao nhạc của ông tuy phần nhiều chuyên chở những nỗi buồn, nhưng trong nỗi buồn ấy, vẫn thấp thoáng cái tình ngọt ngào, không có vị mặn của sự trách hờn, giận dỗi.
DòngNhạcXưa vừa có chuyến thăm Paris và gặp gỡ một vài thân hữu để trao đổi về tình cảm cũng như sinh hoạt âm nhạc nơi xứ người. Kinh Đô Ánh Sáng, với tháp Eiffel soi bóng xuống dòng sông Sein thơ mộng, với những tòa lâu đài cổ kính tồn tại từ hàng trăm năm, xứng đáng là cái nôi của những bản tình ca.
Có rất nhiều loại tình cảm mà chỉ cần một cái lần chạm nhẹ vào, là nó sẽ hiện diện ngay trong tâm tưởng. Và cũng có nhiều nỗi đau mà khi nghe qua, chúng ta cảm thấy như đó là sự mất mát của chính mình. Đó là tình nhân loại, tình dân tộc, tình quê hương. Với không ít người,Paris chính là tình yêu như thế. Cát Linh xin dành chương trình âm nhạc cuối tuần kỳ này cho những bản tình ca về Paris, như một chia sẻ nhỏ nhoi với những gì đã xảy đến với nước Pháp trong ngày Thứ Sáu, 13 tháng 11 vừa qua.
Nắng Paris, nắng Sài Gòn
Trong suy nghĩ của nhiều người chúng ta, Paris là một thành phố của tình yêu, là thiên đường của thời trang, là cái nôi của hội hoạ và kiến trúc. Không chỉ thế, mà nước Pháp còn được nhắc đến câu nói ngắn gọn nhưng thể hiện cả một tinh hoa của nền văn hoá, đó là “lịch sự như người Pháp”. Nước Pháp, với Paris, với sông Seine, với nhà thờ Notre Dame de Paris nổi tiếng.
Ai đã từng một lần mơ về Paris? Mơ về một buổi sáng thức dậy trong tiếng chuông vang xa từ ngôi nhà thờ Notre dame de Paris, trong ánh bình minh lấp lánh từ con sông Seine chạy giữa lòng thủ đô?
Nhắc đến Đà Lạt, người yêu nhạc thường hay nhớ đến hoa đào qua tuyệt tác “Ai lên xứ hoa đào” của Hoàng Nguyên. Tuy nhiên lẫn trong số những loài hoa góp vào vườn âm nhạc đủ màu sắc, chúng ta còn bắt gặp Mimosa. DòngNhạcXưa xin tiếp tục chủ đề “Hoa trong nhạc” với bài viết giới thiệu loài hoa đặc trưng cho xứ “Ngàn hoa”.
Hoa “Mimosa” Đà Lạt – lại thêm một “ngộ sự văn hóa”
Có đến 2 loài hoa được gọi chung tên là Mimosa ở Đà Lạt nhưng đều thuộc chi Keo Acacia, không thuộc chi Trinh nữ Mimosa.
1.Chi Trinh nữ (danh pháp khoa học: Mimosa – có nghĩa là Trinh nữ) là một chi khoảng 400 loài cây thân thảo và cây bụi, thuộc phụ họ Trinh nữ (Mimosoideae) trong họ Đậu (Fabaceae), lá kép hình lông chim với các tên gọi dân dã như xấu hổ, trinh nữ, mai dương v.v. (1). Loài được biết nhiều nhất là Mimosa pudica với tên gọi dân dã là cây xấu hổ hay cây trinh nữ bò lan do các lá của chúng khép lại khi bị chạm vào. Nhiều loài khác cũng khép lá lại vào buổi chiều. Trinh nữ có nguồn gốc ở miền nam Mexico và khu vực Trung Mỹ nhưng đã phổ biến rộng khắp như là một
loài cây cảnh được trồng trong nhà trong các khu vực ôn đới và ngoài vườn trong các khu vực nhiệt đới. Năm 1947 Thailand còn mắc sai lầm khi nhập cây mai dương về để cải tạo đất vì chúng là cây họ đậu. Việc trồng ngoài vườn đã làm cho Mimosa nhanh chóng trở thành một loại cỏ dại và một số loài trong đó trở thành loài xâm hại nguy hiểm ở nhiều nơi (1) .
DòngNhạcXưa đã có nhiều bài viết về Hà Nội, mảnh đất ngàn năm văn hiến. Hôm nay chúng tôi mời người yêu nhạc thư thả về lại với mùa thu Hà Nội, qua một bài viết của tác giả Cát Lynh.
“Tháng tám mùa thu lá rơi vàng chưa nhỉ?
Từ độ người đi thương nhớ âm thầm
Có phải em là mùa thu Hà Nội
Tuổi phong sương ta cũng gắng đi tìm…” (Có phải em là mùa thu Hà Nội)
Huế luôn là niềm rung động cho nhiều văn nghệ sỹ. Nhạc sỹ Vũ Thành An cũng là một trong số đó. Trong lần về Việt Nam năm 2017 vừa rồi, đi xuôi theo “con đường cái quan” từ Bắc chí Nam, nhà nhạc sỹ có dịp dừng chân ở vùng đất “Sông Hương Núi Ngụ” để ôn lại nhiều kỷ niệm thời tuổi trẻ mà qua đó ông cảm tác nên ca khúc “Tình Xưa Gái Huế”, tức bài Không Tên Số 13. DòngNhạcXưa xin giới thiệu với quý vị đôi nét về nhạc phẩm này.
Nhạc sĩ Vũ Thành An cùng ‘nữ hoàng phòng trà’ HN trở lại Huế ôn kỷ niệm
TPO – Nữ ca sĩ Hiền Anh mặc áo dài tím hoá thành nhân vật chính trong bài hát “Chuyện tình không tên thứ 13 – Tình xưa gái Huế” của nhạc sĩ Vũ Thành An.
Trong dịp về Việt Nam lần này, ngoài các chương trình quan trọng của hành trình, nhạc sĩ Vũ Thành An đã nhất định trở về xứ Huế, với mong muốn được ôn lại một chút kỷ niệm xưa với ca khúc “Chuyện tình không tên thứ 13 – Tình xưa gái Huế” của ông. …
Tiếp nối chủ đề “Những địa danh đã đi vào nhạc“, DòngNhạcXưa xin mời quý vị trở về Sài Gòn – Hòn Ngọc Viễn Đông qua một bài viêt của tác giả Trần Chí Phúc phân tích nét nhạc Trầm Tử Thiêng trong bản nhạc “Đêm nhớ về Sài Gòn” nổi tiếng.
Đêm Nhớ Về Sài Gòn – nỗi sầu nghệ thuật của Trầm Tử Thiêng
1- Đêm nhớ về Sài Gòn, thấy phố phường buồn xưa chưa nguôi. Những con đường thèm đôi chân vui, đã bao lâu chờ đợi. Đường im nghe quá khứ trong sầu. Đường chia ly vẫn ngóng tin nhau. Tình lẻ loi canh thâu.
DòngNhạcXưa xin giới thiệu một bài viết có giá trị của tác giả Tâm Triều về cái thú uống cafe lâu đời của dân Sài Gòn và qua đó chúng ta có dịp xuôi dòng thời gian gần một thế kỷ để biết thêm về sự hình thành của thú cafe Sài Thành. Ngoài ra, tác giả cũng giới thiệu các quán cafe và các phòng trà nhạc xưa của Hòn Ngọc Viễn Đông ngày nào.
Hồi xửa hồi xưa… có một Sàigòn người ta gọi cà phê là “cà phe”, đi uống cà phê là đi uống “cà phe” với giọng điệu rất là ngộ nghĩnh. Tiếng Tây gọi cà phê là Café, tiếng Anh là Coffee nhưng mấy xì thẩu Chợ Lớn thì gọi là “cá phé”. Vậy thì café, coffee, cà phê, cà phe hay là cá phé muốn gọi sao thì gọi nhưng ai cũng hiểu đó là món thức uống màu đen có hương vị thơm ngon, uống vào có thể tỉnh người nếu uống quá đậm có thể thức ba ngày không nhắm mắt….
TRỞ VỀ THẬP KỶ 50 : CÀ PHÊ VỚ
Năm một ngàn chín trăm… hồi đó người Sàigòn chưa ai biết kinh doanh với nghề bán cà phê cả. “Xếp sòng” của ngành kinh doanh… có khói này là do các xếnh xáng A Hoành, A Coón, chú Xường, chú Cảo… chủ các tiệm hủ tíu, bánh bao, há cảo, xíu mại. Vô bất cứ tiệm hủ tíu nào vào buổi sáng cũng có bán món cá phé, cà phê, cà phe đi kèm để khách có thể ngồi đó hàng giờ nhăm nhi bàn chuyện trên trời dưới đất.
Hồi đó chẳng ai biết món cà phê phin là gì đâu ? Các chú Xường, chú Cảo, A Xứng, A Hía chỉ pha độc một loại cà phê vớ. Một chiếc túi vải hình phểu được may cặp với một cọng kẻm làm vành túi và cán. Cà phê bột đổ vào túi vải (gọi là bít tất, hay vớ đều được). Vì chiếc dợt cà phê nầy hơi giống như chiếc vớ dùng để mang giày nên “dân chơi” gọi đại là cà phê vớ cho vui. Chiếc vớ chứa cà phê này sau đó được nhúng vào siêu nước đang sôi, lấy đũa khuấy khuấy vài dạo xong đậy nắp siêu lại rồi . . .”kho” độ năm mười phút mới có thể rót ra ly mang ra cho khách. Chính cái “quy trình” pha chế thủ công đầy phong cách Tàu này mà dân ghiền cà phê còn gọi nó là cà phê kho bởi chỉ ngon lúc mới vừa “kho nước đầu”. Nếu ai đến chậm bị kho một hồi cà phê sẽ đắng như thuốc Bắc.
Đại học Văn Khoa Sài Gòn (nay là Đại Học Khoa Học Xã Hội & Nhân Văn, nằm trên đường Đinh Tiên Hoàng) từ lâu đã đi vào thơ nhạc. Bao nhiêu con tim của biết bao thế hệ, dù không còn ngồi ở giảng đường Văn Khoa nhưng với họ, mỗi lần ghé thăm, mỗi khi nhớ về, hay đơn giản chỉ bất chợt nghe một câu hát của ngày xưa cũ là cũng đủ làm con tim bồi hồi xao xuyến. Trong niềm cảm xúc ấy, DòngNhạcXưa xin giới thiệu bản “Người em Văn Khoa” của nhạc sỹ Châu Kỳ và một bài viết của tác giả Huỳnh Như Phương.
Thi đậu tú tài phần thứ hai, vì học ban C, nên khi bước vào đại học, tôi không có nhiều chọn lựa như bạn bè cùng lứa. Tôi đã chọn Đại học Văn Khoa Sài Gòn chỉ vì đây là ngôi trường thân thiện với tôi từ khi còn là học sinh trung học: qua giới thiệu của các thầy giáo, kệ sách nhà tôi đã có những cuốn sách của các giáo sư nổi tiếng ở trường.
Văn Khoa trong thời chiến
Buổi học đầu tiên, tôi đứng ở hành lang dãy phòng học gần gốc cây me bây giờ, nhìn lên lầu một: thầy Nguyễn Văn Trung và thầy Lý Chánh Trung mặc sơ mi trắng, mang giày săng-đan đứng tựa vào lan-can hàn huyên với các thầy giáo trẻ. Đó là hai người thầy mà tôi ngưỡng mộ khi trích văn trong một bài báo Xuân hồi học lớp 10 ở trường Trung học Trần Quốc Tuấn và chỉ hình dung khuôn mặt qua tấm ảnh chụp những giáo sư ngồi tuyệt thực trước hành lang Hạ nghị viện để đòi chính quyền trả tự do cho các sinh viên tranh đấu.
Nhiều năm trôi qua, sau này nhớ lại những ngày tháng cũ, đôi khi những kỷ niệm êm đềm làm ta quên hết những điều chưa tốt đẹp. Thật ra, Văn Khoa hồi ấy, giữa không khí chiến tranh nóng bỏng bao trùm đời sống, còn rất nhiều thiếu thốn và bất tiện để có thể xem là một trường đại học đúng nghĩa. Tòa nhà trên đường Cường Để này vốn là nơi đóng quân của “Lữ đoàn liên binh phòng vệ Phủ Tổng thống”, nhường chỗ cho nhà trường chuyển đến từ đường Gia Long, nhưng vẫn giữ một phần diện tích cho mục đích quân sự, với hàng rào kẽm gai ngăn cách. Trong sân trường xe cộ để ngổn ngang. Dãy phòng học một tầng mái thấp, nóng bức, với những chiếc ghế hàn vỉ sắt làm rách quần những sinh viên đãng trí. Muốn đến giảng đường học môn Văn minh Việt Nam, môn học thường phải đi sớm để giữ chỗ vì quá đông sinh viên nghe giảng, phải bước lên cầu thang cạnh một nhà vệ sinh luôn bốc mùi, đến nổi có lần thầy Thanh Lãng nói đùa cái mùi đó là đặc trưng của trường Văn Khoa! Cũng vì lớp đông nên sinh viên thường chỉ nghe giảng, ghi chép và đọc cours; vài lần muốn tổ chức séminaire, thầy Nguyễn Văn Trung phải đi dã ngoại với chúng tôi ra La San Mai Thôn hay rừng cao su gần Đường Sơn Quán.
Nhưng Văn Khoa để lại ấn tượng sâu đậm không phải vì cảnh quan mà vì những con người đáng quý trọng. Hồi đó, ngay trong hai năm đầu, lớp chúng tôi đã được học thầy Trần Thái Đỉnh với cách giảng bài khúc chiết, thầy Lê Tôn Nghiêm – sâu sắc, thầy Lê Thành Trị – điềm đạm, thầy Giản Chi – lão thực, thầy Bửu Dưỡng – uyên bác, thầy Nguyễn Duy Cần – nghiêm nghị… Có những lần giờ tan học qua lâu, thầy Kim Định với chiếc áo dài trắng như một đạo sĩ, vẫn còn nán lại trên hành lang giải thích thêm cho chúng tôi về triết lý an vi. Thầy Lê Xuân Khoa lịch thiệp, bận công việc ở Viện Đại học, dành những buổi tối dạy cho chúng tôi môn triết học Ấn Độ.
Có thể nói Văn Khoa Sài Gòn là nơi tập hợp nhiều khuôn mặt trí thức tiêu biểu của miền Nam thời ấy. Văn Khoa cũng là nơi phát khởi những khuynh hướng học thuật mới mẻ, những phong cách độc đáo trong biên khảo, trước tác và dịch thuật. Những bộ sách về lịch sử triết học và văn học, về lý thuyết và phương pháp luận sử học, nhân học, ngữ học, phê bình văn học… của các giáo sư Đại học Văn Khoa chắc chắn sẽ được các thế hệ sau kế thừa.
Năm hòa bình đầu tiên
Mùa hè năm 1975, mọi thứ được sắp xếp lại, các thầy cô giáo dự lớp học chính trị riêng, sinh viên nghe giảng riêng, sau đó mỗi thầy được cử đến một tổ sinh viên để cùng thảo luận về “chuyên chính vô sản” và nhiệm vụ của nhà trường mới. Học chính trị xong, chúng tôi học chuyên môn với các thầy cô đến từ Hà Nội. Hầu hết thầy cô giáo Văn Khoa ở lại đều không lên lớp mà chỉ nghiên cứu thuần túy, một ít người chuyển sang dạy Hán Nôm hay ngoại ngữ. Hoàn cảnh đổi thay nhưng tình thầy trò không thay đổi: những ngày đầu tháng 5 thầy Lê Thành Trị, khoa trưởng, cùng sinh viên chuẩn bị hội trường đón tiếp đoàn giáo sư miền Bắc do ông Phạm Như Cương dẫn đầu; các thầy Lý Chánh Trung, Lê Tôn Nghiêm, Trần Thái Đỉnh lên thăm chúng tôi trồng cây trên Chánh Phú Hòa; thầy Thanh Lãng mặc áo ký giả đến dự Hội Tết Văn Khoa năm hòa bình đầu tiên… Văn Khoa sẽ vui biết mấy nếu không khí hòa hợp đó còn mãi kéo dài.
Còn nhớ một buổi tối trong năm học chuyển tiếp đó, khi đến cư xá Thanh Quan, tôi thấy thầy Phạm Văn Diêu và thầy Nguyễn Lộc, hai người đồng hương Quảng Ngãi, đều là chuyên gia về Nguyễn Du và Truyện Kiều, lần đầu gặp nhau chuyện trò tâm đắc về nghiên cứu văn học cổ điển ở hai miền. Khoa Ngữ Văn của chúng tôi từ đó là nơi quy tụ những thầy giáo muốn tìm một chỗ bình yên để làm khoa học: Nguyễn Văn Trung, Bửu Cầm, Phạm Hữu Lai, Trần Trọng San, Lưu Khôn, Nguyễn Tri Tài, Nguyễn Khuê… Những cuốn sách có thể chịu cảnh im lìm bám bụi trong phòng đọc hạn chế, nhưng người làm khoa học thì phải vượt qua hoàn cảnh, không để mình bám bụi, và rồi những cuốn sách mới lại tiếp tục ra đời.
Từ ngày thành lập Đại học Văn Khoa Sài Gòn (01-3-1957) đến nay đã 60 năm. Những thế hệ xây dựng Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn ngày nay không quên quá khứ, vì đó là một phần lịch sử của mình. Tôi thầm nghĩ, một may mắn của đời mình là được chứng kiến gần ba phần tư thời gian lịch sử đó của ngôi trường, từ thời sinh viên đến khi sắp về hưu, gắn bó với từng phòng học, từng dãy hành lang, thư viện và những khuôn mặt lúc cởi mở lạc quan, khi đăm chiêu sầu não, nhưng luôn ấp ủ những hoài bão khoa học.
Vài năm nữa ngôi trường sẽ chuyển hẳn ra ngoại thành với một cơ ngơi khang trang, bề thế; người đi xa về có thể không tìm ra nơi lưu giữ kỷ niệm học đường. Những người đã qua, những người còn lại và những người sẽ tới đâu thể nào có một lần hội ngộ cho tất cả. Qua trang viết này, chỉ mong gửi gắm một nỗi niềm chung mà từ những góc trời riêng rẽ, chúng ta có thể sẻ chia về những ngày tháng cũ.