Tiếp nối dòng nhạc xuân, [dongnhacxua.com] xin trân trọng giới thiệu một bài hát rất phổ biến thời “bao cấp”, những năm 1980: bản “Mùa xuân, làng lúa, làng hoa” của nhạc sỹ Ngọc Khuê, một nhạc sỹ sinh ra và lớn lên ở miền Bắc. Không gian chúng ta sống có thể khác nhau, chính kiến chúng ta có thể khác nhau nhưng cảm nhận về mùa Xuân thì ngàn đời vẫn vậy. Đó là thời khắc giao mùa, là lúc muôn hoa đua sắc, đất trời thay đổi để cho lòng mình cũng thay rộn rã giao hòa với cảnh vật và con người xung quanh!
(HNM) – Ở phía bắc Thủ đô, làng lúa giờ không còn và làng hoa bị thu hẹp nhưng mỗi khi Tết đến, ca khúc “Mùa xuân, làng lúa làng hoa” của nhạc sỹ Ngọc Khuê lại vang lên, nó gợi lại những gì mượt mà, đẹp đẽ của một thời. Chúng tôi đã có cuộc trò chuyện với nhạc sỹ Ngọc Khuê, tác giả của ca khúc này.
– Thưa nhạc sỹ Ngọc Khuê, nhiều người đã nghe ca khúc “Mùa xuân, làng lúa làng hoa” của ông, nhưng vẫn biết rất ít về ông?
– Quả đúng như vậy. Dù trước và sau khi viết “Mùa xuân, làng lúa làng hoa” tôi cũng đã sáng tác tới gần 300 bài hát, trong đó có ca khúc “Hạt nắng hạt mưa” từng đoạt giải thưởng… nhưng nhiều người khi cứ nhắc tới Ngọc Khuê là nhớ tới “Mùa xuân, làng lúa làng hoa”. Có người còn gọi tôi là “ông làng lúa làng hoa” nữa (cười). Tôi sinh năm 1947, là con thứ 5 trong một gia đình có 6 anh chị em ở Hoài Đức (nay là Hà Nội). 18 tuổi, tôi bắt đầu rời quê hương, gia đình để bước vào cuộc đời quân ngũ, sau đó trở thành một trong những người lính pháo cao xạ bảo vệ cầu Hàm Rồng. Rồi tới năm 1974 thì được chuyển về Đoàn Văn công Phòng không – Không quân, làm diễn viên hát. Rồi gắn bó với Quân chủng Phòng không – Không quân đến lúc nghỉ hưu.
– Ca khúc “Mùa xuân, làng lúa làng hoa” được ông viết trong hoàn cảnh nào?
– Như nhiều nhạc sỹ khác, từ lâu tôi muốn viết một ca khúc về Hà Nội, đặc biệt là về mùa xuân Hà Nội, nhưng viết mãi mà chưa thành. Tôi muốn ca khúc ấy sao cho nó là của riêng nhưng mọi người vẫn có thể thấy mình trong đó. Cho tới một chiều mùa đông năm 1981, khi đạp xe đi thăm người bạn ở gần hồ Tây, tôi mới phát hiện ra rằng hồ Tây không chỉ có hoa. Phía bên Xuân La, Xuân Đỉnh còn là “làng lúa”. Lâu nay người ta thường gọi đó là những cánh đồng lúa xanh mướt hay chín vàng. Nhưng tôi muốn ví đó là những “làng lúa”. Sự “phát hiện” đó cộng với hình ảnh những “làng hoa” ấp ủ viết bấy lâu đã giúp tôi bật ra câu hát: “Lúa ơi thơm ngát cho em hát cùng người/Bởi lúa yêu cuộc đời nên xanh thắm ruộng đồng…”. Câu hát đầu tiên ấy đã xuất hiện và nhờ đó, về nhà tôi đã viết xong bài hát.
– Ông có thể nói kỹ hơn?
– Cảm xúc của buổi chiều cuối năm 1981 ngay giữa thiên nhiên đó đã giúp tôi hoàn thành đoạn chính của bài hát trước. Đến khi về nhà tôi mới ngồi viết phần đầu và phần kết của bài hát. Tôi viết hai phần này thật khó khăn, nhất là đoạn mở đầu: “Bên lúa, anh bên lúa/Cánh đồng làng ven đê/Hồ Tây xanh mênh mông, trong tươi thắm nắng chiều/Làng em làng hoa, hoa thơm ngát bốn mùa…”. Tôi đã thử bằng nhiều cách khác nhau để bắt đầu bài hát, cuối cùng thấy hợp lý khi lấy âm hưởng của một điệu hò để thể hiện sự lấp lánh của mặt gương hồ Tây, sự dào dạt êm ả của sóng nước, sóng lúa. Đó là một sự giao duyên tình tứ rất mộc mạc nhưng lại vô cùng đằm thắm của những đôi trai gái mà tôi nghĩ rằng chỉ có những làng mạc lâu đời, trù phú mà thanh lịch ven hồ Tây Hà Nội mới có. Rồi đến đoạn kết của bài hát, vừa là cao trào của âm nhạc vừa là một tình cảm như đột ngột bừng dậy của tình yêu đôi lứa. Đến đây thì hồ Tây chỉ còn lại như cái cớ, như điểm tựa để nhường chỗ cho tình ca, cho tình yêu và hạnh phúc của con người. Với tôi, lúa và hoa như một biểu tượng đẹp đẽ nhất của cuộc sống. Làng lúa – làng hoa, cả mùa xuân nữa dường như mới chỉ bắt đầu.
– Nghe nói bài hát này còn “nhắm” tới một cô gái?
– Quãng những năm 1978 hay 1979 gì đó, tôi có quen một cô gái và thú thật cũng rất muốn viết ca khúc để tặng. Đôi khi chúng tôi chở nhau trên chiếc xe đạp lòng vòng trên những con đường ven Hồ Tây. Tôi nảy ra ý định “mượn” những làng hoa ven hồ để làm cái cớ. Định như vậy rồi nhưng khi viết thì vẫn thấy khó, thấy không ổn. Tôi đành “gác” kế hoạch viết bài hát ấy lại.
Hồi đó, chúng tôi thường hay đặt “bí danh” cho nhau bằng những con số. Cái tên của tôi được “dịch” sang con số 12, còn tên cô ấy là số 13. Nhưng tôi biết cái “ngưỡng” để dừng lại, vì lúc đó tôi là thượng úy, đồng thời là đội trưởng đội hát và tôi đã lập gia đình được 7 năm. Vì thế, giữa tôi và “13” chỉ là những tình cảm trong sáng. Đến bây giờ, “13” cũng đã chồng con đủ đầy, hiện làm ở một Đại sứ quán tại Hà Nội, thi thoảng chúng tôi vẫn thăm hỏi nhau và coi nhau như bạn bè thân thiết.
– Ban đầu ông đặt tên bài hát là gì? Và hẳn ông sẽ đề tặng người bạn gái đó?
– Lúc đầu tôi đặt tên cho bài hát là “Làng lúa, làng hoa” vì tôi nghĩ thế là đủ. Với lại tôi rất thích chữ “làng lúa”, “làng hoa” nên đã đặt luôn cho bài hát như vậy. Viết xong bài hát, tôi sướng lắm. Tôi nhớ khi ấy có hát cho “13” nghe, cô ấy vui lắm. Bên góc bản thảo, tôi cũng trân trọng đề dòng chữ: “Tặng bạn tôi: 13” kia mà.
– Lần đầu tiên bài hát chính thức xuất hiện trước công chúng là khi nào vậy, thưa ông?
– Đó là mùa xuân năm 1982. Lúc đó tôi mang tới Ban Văn nghệ Đài Tiếng nói Việt Nam. Tôi vẫn nhớ thời điểm đó, truyền hình còn mới mẻ, nhà ai giàu thì mới có chiếc tivi đen trắng, mà thời lượng phát sóng còn hạn chế nên Đài Tiếng nói Việt Nam là nhất. Khi đó, nhạc sỹ Thế Song đang là biên tập viên chuyên mục ca nhạc của đài, nghe xong bài hát, ông khuyên tôi thêm 2 chữ “Mùa xuân” vào tên bài hát. Sau đó, ca sỹ Thanh Hoa là người đầu tiên thể hiện bài hát này. Đến bây giờ, bài hát còn gắn liền với nhiều ca sỹ khác như Trung Anh, Mỹ Lệ…
Một mùa xuân nữa lại về trên quê hương Việt Nam. Trong không khí rộn rã của xuân Ất Mùi 2015, [dongnhacxua.com] xin gởi đến người yêu nhạc xưa bản “Gái Xuân” của nhạc sỹ Từ Vũ, phổ theo lời thơ của thi sỹ Nguyễn Bính.
Nhạc sĩ Từ Vũ (tên thật là Trần Đỗ Lộc), sinh năm 1932 tại Hà Tây, nay thuộc Hà Nội. Ông là tác giả của những giai điệu quen thuộc: “Em như cô gái hãy còn xuân. Trong trắng thân chưa lấm bụi trần”. Hơn nửa đời người từ bỏ bảy nốt nhạc, nay ông lại “hồi xuân” để viết tiếp những khúc ngợi ca tình yêu, mùa xuân.
Năm 1954 NXB Tinh Hoa cho ấn hành cuốn sách nhạc trong đó có tác phẩm “Gái xuân” của nhạc sĩ Từ Vũ. Điều đặc biệt “Gái xuân” là nhạc phẩm mang âm hưởng miền Bắc đã trở thành món ăn tinh thần được yêu quý ở miền Nam. Từ ca sĩ đến người dân miền Nam chưa một lần đặt chân đến đất Bắc nhưng vẫn hào hứng hát: “Xuân đến hoa mơ hoa mận nở/Gái xuân rũ lụa bên sông Vân”. Chính ca khúc này đưa nhạc sĩ Từ Vũ ngang hàng với các nhạc sĩ nổi tiếng ở thế hệ trước. 60 năm sau, ca khúc “Gái xuân” vẫn sống khỏe qua các thế hệ ca sĩ và trở thành một nhạc phẩm thân thuộc không thể thiếu trong dịp tết đến xuân về từ Nam ra Bắc.
Trong căn nhà nhỏ đường Nguyễn Cửu Đàm, quận Tân Phú, TP Hồ Chí Minh, nhạc sĩ Từ Vũ kể với chúng tôi về những nốt nhạc “định mệnh” đời mình: “Khi đọc đến “Gái xuân” của Nguyễn Bính, tự nhiên nỗi nhớ quê hương, nhớ thương người con gái đang ở một phương trời xa ập tới, nghẹn lại, tôi phổ nhạc cho bài thơ chỉ trong một giờ đồng hồ là xong. Viết xong, tức tốc đạp xe đến nhà ca sĩ Linh Sơn nhờ thể hiện để làm món quà tặng người bạn gái du học. Không ngờ ca khúc lại trở nên nổi tiếng”. Ông bảo, hãnh diện nhất là ca sĩ miền Nam, người miền Nam đã hát “Gái xuân”. Sở dĩ như vậy bởi năm 1950 nhạc sĩ Từ Vũ theo gia đình vào miền Nam sinh sống và thường bị bạn bè chê cười gọi là “cá gỗ”, “rau muống”. Mối tình đầu của nhạc sĩ Từ Vũ với một cô gái miền Nam tan vỡ vì bị gia đình cô gái cấm cản. Rồi mối tình thứ hai cũng chẳng thể an bài, người yêu lần này là cô bạn gái cùng lớp tên là Thanh Vân, hai người thương nhau suốt một kỳ học nhưng phải chia tay nhau vì Thanh Vân ra nước ngoài du học. Trong buổi chiều cô quạnh, chàng trai trẻ thương nhớ người yêu, thương nhớ mùa xuân đất Bắc tìm được tập thơ Nguyễn Bính và đọc đến bài thơ “Gái xuân” thì cảm xúc dâng trào..
Góa vợ từ năm 39 tuổi, một mình ở vậy nuôi 4 con trưởng thành, cuộc đời nhạc sĩ Từ Vũ gắn với sự cô độc và khó khăn. “Xa Hà Nội, xa mùa thu, xa buổi sáng đầu đông và xa nụ cười hoa đào chớm xuân, tôi mất cảm xúc không thể nào viết được, do đó không còn sáng tác được ca khúc xuân. Năm 1993, có dịp trở về thăm Hà Nội, không khí trong lành của ngày đầu chớm xuân, tôi chợt nghe lời hát “Gái xuân” và tự nhiên bồi hồi, xúc cảm!”. Nhạc sĩ Từ Vũ quyết định thay đổi. Ông dành thời gian để chăm sóc vườn hoa trên sân thượng, cùng bạn bè đi viếng mộ các thi nhân lớn của Việt Nam như Hàn Mặc Tử, nhà thơ Tương Phố. Ngoài ra, ông tiếp tục phổ nhạc bài thơ “Hai sắc hoa Ti gôn” của TTKH và bài “Giọt lệ thu” của nữ sĩ Tương Phố . Ông bắt mạch cảm xúc tìm về sáng tác các ca khúc xuân ở tuổi 80. Ông khoe với chúng tôi ca khúc “Ta tìm thấy nhau” bằng ánh mắt hân hoan về một mùa xuân tuần hoàn của cuộc đời.
Với nhiều thế hệ yêu nhạc xưa, bản “Giáo đường im bóng” của Nguyễn Thiện Tơ có thể được xem như là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho dòng nhạc về Giáng Sinh của tân nhạc Việt Nam. Xung quanh nhạc phẩm bất hủ này, có nhiều chi tiết thú vị. Nhân dịp Noel về, DòngNhạcXưa xin giới thiệu đến quý vị bản “Giáo đường im bóng” nổi tiếng này.
ANTĐ – Lâu nay, các nhà thơ, công bố thơ trên các phương tiện thông tin đại chúng, rồi các nhạc sĩ đọc, nếu rung động, đồng cảm sẽ phổ nhạc. Nhanh thì một đêm là xong, lâu thì cũng trong vòng một tháng. Vậy mà, từng có chuyện “ngược đời” xảy ra cách đây đã… 73 năm. Tác giả nhạc viết giai điệu trước, sau đó “người thơ” mới viết phần lời. Đó là ca khúc “Giáo đường im bóng”, nhạc: Nguyễn Thiện Tơ; lời: Phi Tâm Yến.
“Lá êm êm rơi trên gương hồ/ Hình như mối tơ duyên xa mờ/ Sóng rung rinh hồ xưa đây/ Hồn tôi nhớ nàng mê say/ Ngày xa ấy u trầm quá/ Và sóng mắt huyền còn biết tìm đâu… /… Nơi giáo đường im bóng, tôi thầm mong ngóng/ Đắm đuối trên làn sóng mắt nàng huyền mơ”.
Nghe ca khúc này nhiều lần, qua nhiều giọng hát ở các thế hệ khác nhau, từ Khánh Ly, Tuấn Vũ, Sỹ Phú cho tới Thu Minh, Ngọc Anh – dù rất mong một lần được gặp gỡ và trò chuyện với nhạc sĩ Nguyễn Thiện Tơ – người viết ra những giai điệu ấy, nhưng tôi không nghĩ mình còn cơ hội gặp ông. Nghĩ vậy, bởi tôi biết ông sinh năm 1921, giờ cũng đã bước qua cái ngưỡng “cửu thập”. Cái tuổi này, dễ khiến bất cứ ai đều có thể trở thành những người của cõi nhớ thương. Hoặc nếu còn sống thì biết đâu người ta đã lẫn lộn nhiều thứ, và bệnh tật tuổi già cũng đã khiến cho mọi trí tuệ có thể trở nên không còn minh mẫn nữa. Vì thế tôi cứ cầm chắc cơ may đã không còn đến với mình.
Bẵng đi, cho đến năm ngoái tôi được một người bạn trong giới nhạc sĩ “bật mí” nhạc sĩ của Giáo đường im bóng vẫn còn sống, hiện ở phố Mai Hắc Đế và vẫn minh mẫn để trò chuyện, khỏi nói tôi đã mừng thế nào. Tôi không thể chần chừ hơn, vội tìm gặp ông.
Phố phường Hà Nội những ngày giữa tháng 12 nhộn nhịp đến ồn ã cái không khí Giáng sinh. Và khi bước vào căn nhà nhỏ của ông trên phố Mai Hắc Đế, cứ như là bắt gặp một Hà Nội cũ, của một thời tưởng như đã quá xa rồi.
Thấy chúng tôi đến, nhạc sĩ Nguyễn Thiện Tơ ngồi dậy. Ở tuổi ngoài 90, ông vẫn còn giữ được nét đẹp của một người Hà Nội xưa, dù khuôn mặt và đặc biệt là đôi mắt tỏ rõ sự thiếu ngủ. Người ta không có thời gian để ngủ, còn ông, thừa thời gian nhưng lại không ngủ được. Sắp tới Giáng sinh rồi, biết thế nào tôi đến cũng lại hỏi về ca khúc Giáo đường im bóng, ông cười hóm hỉnh, bảo lâu quá rồi. Cái thời của ông, ngày lễ Noel nó sâu lắng và lịch lãm lắm chứ không lòe loẹt và ồn ã như bây giờ.
Rồi ông kể: “Từ năm khoảng 10 tuổi, tôi đã mê âm nhạc. Đến năm 12 tuổi, nghe tin thầy giáo Trần Đình Khuê mở lớp guitare Hawai thế là tôi xin bố cho đi học. Học với thầy Khuê, thì thoảng tôi lại được đi biểu diễn cùng thầy. Vài năm sau tôi học thêm Tây ban cầm do một người Pháp dạy. Khi sử dụng thành thạo hai loại nhạc cụ này, tôi đi biểu diễn ở mấy phòng trà, thi thoảng lại tham gia các chương trình biểu diễn từ thiện. Trong một lần về Nam Định biểu diễn từ thiện như thế, tôi bắt gặp một cô gái Thành Nam. Lúc ấy tôi còn là học sinh trường Thăng Long ở Hà Nội. Cô ấy cũng chơi đàn và hát trong buổi biểu diễn từ thiện này. Ngay từ cái nhìn đầu tiên ấy, tôi đã cảm thấy mình yêu người con gái này. Sau đó, chúng tôi có gặp lại đôi ba lần. Nhưng rồi có trắc trở. Tôi buồn quá vì nghĩ như thế là mình không cưới được cô gái ấy. Vì thế mà tôi viết bài hát này”.
Thì ra là vậy.
Nhưng tôi vẫn còn tò mò nên gặng hỏi nhạc sĩ Nguyễn Thiện Tơ, rằng, thưa ông, trên bài hát có ghi: “Nhạc Nguyễn Thiện Tơ; Lời: Phi Tâm Yến”. Vậy Phi Tâm Yến là ai, là bút danh của ông, hay là…? Nhạc sĩ Nguyễn Thiện Tơ cười: “Đây là bài hát đầu tay của tôi, khi đó tôi mới 17 tuổi. Ca khúc này được tôi hoàn thành nhạc trước, sau đó người bạn phổ thơ vào. Phi Tâm Yến là người bạn thân, chúng tôi chơi với nhau từ khi lên 10 tuổi. Cậu ấy tên thật là Trần Văn Phụng. Sau này tôi cũng có viết nhạc, bạn viết lời thơ trong vài ca khúc khác, nhưng giờ thất lạc hết rồi”.
Thêm một chi tiết bất ngờ. Hóa ra là vậy.
Ca khúc Giáo đường im bóng đã đồng hành với nhiều thế hệ người nghe, và chất chứa trong nó không chỉ một câu chuyện tình tuyệt đẹp, mà còn cả một “sự tích” nhạc viết trước lời viết sau mà ít người biết tới. Lời ca thì thoáng buồn, xen chút tuyệt vọng về một mối tình đầu, nên khi hoàn thành, nhạc sĩ Nguyễn Thiện Tơ cũng không đề tặng cô gái Thành Nam Vũ Hà Tiên, cũng không hát cho “nàng” nghe. Chỉ âm thầm giữ kín cho riêng mình.
Nhưng rồi vượt qua những định kiến, họ đã trở thành vợ chồng suốt từ năm 1944 đến nay. Bây giờ, cô gái đẹp đất Thành Nam xưa đã trở thành bà lão 90 tuổi, sống hồn hậu bên con cháu. Mỗi năm, cứ mùa Giáng sinh về, đôi vợ chồng già lại có dịp ôn lại câu chuyện tình thuở đôi tám của mình. Còn người yêu nhạc hôm nay lại có dịp nghe lại những giai điệu êm dịu: Trong giáo đường đêm Noel ấy…
Nhạc sĩ Nguyễn Thiện Tơ sinh năm 1921, tại Hà Nội, xuất thân trong một gia đình công nhân (xưởng in Viễn Đông) tại căn nhà số 22 phố Charron, nay là phố Mai Hắc Đế, Hà Nội. Sau ngày quân đội Việt Minh tiếp quản Hà Nội, Nguyễn Thiện Tơ về Đài Tiếng nói Việt Nam, thổi sáo trong dàn nhạc của đài. Đến năm1959, ông chuyển sang dàn nhạc giao hưởng nhạc vũ kịch. Năm 1965, ông chuyển về hãng Phim truyện Việt Nam. Một số tác phẩm của nhạc sĩ Nguyễn Thiện Tơ: Chiều quê, Chiều tà, Cung đàn xuân xưa, Đêm trăng xưa, Khúc nhạc canh tàn, Nắng xuân, Nhắn gió chiều, Nhớ quê… Và một số tác phẩm nhạc của Nguyễn Thiện Tơ, lời của Hoàng Giác, Văn Khôi, Phi Tâm Yến như: Qua bến năm xưa, Tiếng hát biên thuỳ, Trên đường về, Giấc mơ xưa, Ngày vui đã qua…
Những ngày đầu tháng 12, trời Hà Nội trở lạnh. Chúng tôi có dịp lang thang trên những con phố Hà Nội. Những cảm xúc về một “Em ơi, Hà Nội phố” như ùa về. [dongnhacxua.com] xin giới thiệu đến người yêu nhạc xưa bài thơ nổi tiếng của Phan Vũ, cũng như bản phổ tuyệt vời của nhạc sỹ Phú Quang.
TTCT – Ngày 25-9 tại Hà Nội, Em ơi, Hà Nội phố – sau “gần nửa thế kỷ ra đời nhưng vẫn chưa trở về Hà Nội” như lời tác giả, đã được nhà thơ Phan Vũ đọc lần đầu tiên trong đêm thơ tổ chức cho riêng ông ở Thư viện Hà Nội. TTCT giới thiệu bài viết của nhà thơ về cuộc hành trình gần 50 năm của Em ơi, Hà Nội phố và trích đăng một số khổ của bài thơ.
Tôi viết Em ơi, Hà Nội phố từ năm 1972 nhưng trong một thời gian dài, vì những lý do riêng, bài thơ chưa đến với độc giả. Cho đến năm 2009, nguyên tác bài thơ mới in trong tập Thơ Phan Vũ. Ở Huế, tôi đã đọc bài thơ dưới ánh sáng của một ngọn nến, trong một căn nhà cổ cho một số bạn Huế yêu thơ. Ở Sài Gòn, tôi đã đọc tại quán Guitare Gỗ do nhạc sĩ Châu Đăng Khoa đệm đàn và viết một ca khúc phụ họa.
Như vậy là gần nửa thế kỷ bài thơ viết về Hà Nội, tại Hà Nội vẫn chưa trở về Hà Nội. Và tôi vẫn mong đợi một dịp được lần đầu đọc Em ơi, Hà Nội phố giữa thủ đô.
***
Tháng chạp năm 1972, khi B-52 của Mỹ bắn phá thủ đô với lời hăm he “đưa Hà Nội trở lại thời kỳ đồ đá!”, tôi khởi viết những câu đầu tiên: Em ơi, Hà Nội phố… Ta còn em, mùi hoàng lan, ta còn em mùi hoa sữa… Điệp từ Ta còn em, ta còn em… được lặp lại trong từng đoạn của bài thơ. Có người nghĩ điệp từ này có ý nghĩa thách thức với lời hăm dọa của ông Nixon. Tôi không có ý đó, chỉ thấy lòng mình chùng xuống vì âu lo trước cảnh tượng đất đai Hà Nội bị bom đạn cày xới và máu người Hà Nội đổ trên phố phường nên đọc một câu “niệm chú” để tự trấn an. Ta còn em… là còn những hoài niệm yêu thương của tôi về Hà Nội mà đôi lần khi trong trạng thái cần nương tựa, an ủi, tôi lại tìm về.
Nhưng Em ơi, Hà Nội phố không phải là một lời thủ thỉ tự tình, đó là một tiếng kêu thương tha thiết… Tháng chạp bi tráng năm ấy, những sự việc hằng ngày đã khắc ghi những đường rãnh trong ký ức, giữ lại cho con người một nỗi nhớ xót xa, sâu đậm. Chỉ một đêm xuống phố Khâm Thiên sau trận bom, nghe tiếng than khóc của dân phố, nhìn những vành khăn tang trắng xóa trong đêm và ngửi mùi hương cúng đã hình thành ngay hoài niệm để một đời không thể nào quên.
Tôi cũng phải nói thêm điệp từ Ta còn em… còn có nghĩa “ta mất em…”. Đó là sự tiếc nuối về những gì “thật Hà Nội” không còn nữa! Không chỉ do chiến tranh mà có thể vì những sai lầm, những vô ý, vô tình của người đời, không ngoại trừ sự quên lãng của thời gian, đã gây ra những đổ vỡ không thể hàn gắn được. Chỉ cần mấy câu thơ của người xưa Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo, nền cũ lâu đài bóng tịch dương… cũng làm chúng ta rung động huống hồ những xót đau, mất mát thuộc về tâm linh, một thứ để thờ phụng, khiến con người có thể thí mạng để bảo vệ, gìn giữ. Và tinh thần của người Hà Nội trong tháng chạp năm ấy đã chứng tỏ rõ ràng.
Tôi đã sống một mình trên căn gác suốt 12 ngày đêm khốc liệt của Hà Nội. Bao hoài niệm thật đẹp mà tôi đã có trong quãng thời gian được gọi là “chàng trai Hà Nội” đã trở về trên căn gác, tại một khu trắng triệt để sơ tán vì gần Nhà máy điện Yên Phụ, một mục tiêu oanh kích. Những hình ảnh, những ngôn từ dồn dập kéo đến, đan xen, chồng chéo, không theo một thứ tự thời gian, không gian.
Tôi như đang trong một giấc mơ giữa ban ngày với đôi mắt mở! Em ơi, Hà Nội phố với 25 khổ thơ đã ra đời trong khoảng cách những hồi còi hụ trên nóc Nhà hát Lớn, với giọng Hà Nội thật chuẩn của cô phát thanh viên báo tin những đợt B-52 vào thành phố. Tôi ghi lại một cách vội vàng, theo sự tình cờ, bất chợt, không xếp đặt. Tất nhiên, trong một quá trình dài dặc nửa thế kỷ, bài thơ không thể nằm yên trong ngăn kéo mà luôn cựa quậy, bắt tôi phải chỉnh sửa nhiều lần. Nhiều khi có vài ly rượu ngà ngà lại chợt nhớ, chợt thương một nỗi niềm, chợt tìm thấy một dáng, một hình, một con chữ cần thêm, cần bớt.
Tôi cũng thường bỏ công chép cả bài thơ dài dặc để tặng ai đó, nhưng khi khách ra về lại hí hoáy sửa lại vì trong lúc chép tặng chợt phát hiện một câu, một chữ chưa vừa ý. Do đó Em ơi, Hà Nội phố đã thành tam sao thất bản, đến mức tác giả cũng không sao phân biệt được!
Cho đến năm 1985, một lần gặp Phú Quang, một đoạn thơ đã được phổ nhạc. Khi ca khúc Em ơi, Hà Nội phố đã nổi tiếng với nhiều khen tặng, có người đến nói về giá trị phần ca từ của tôi, nhưng tôi vẫn nghĩ sự xứng đáng thuộc về Phú Quang với những giai điệu mượt mà, du dương quen thuộc của anh; cả về công lao của Phú Quang với ca khúc ấy đã giới thiệu một bài thơ còn lận đận, chưa ra đời! Mấy câu thơ của tôi, một tâm tư mang tính cá nhân, là nỗi đau thầm lặng, nỗi buồn da diết riêng mang không có tính cộng đồng.
Ngày ấy, có một nhà thơ lớn khi đọc bài thơ này đã thật lòng khuyên tôi không nên phổ biến vì có thể chuốc vạ vào thân. Tôi cũng mệt mỏi vì nhiều sự phiền hà văn chương của giai đoạn ấy nên cũng nghe lời bỏ xó.
***
Tôi hi vọng lần đọc đầu tiên bài thơ ở Hà Nội cũng là đọc bản chính thức cuối cùng của Em ơi, Hà Nội phố. Bởi với tuổi 85, hành trình đi qua trần gian, hay nói theo Trịnh Công Sơn là quãng đời “ở trọ trần gian” của tôi cũng đã quá dài so với bao nhiêu bè bạn. Giữa Hà Nội hôm nay bỗng nhiên tôi nghĩ đến những nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, họa sĩ cùng đứng với tôi trong ban chấp hành đầu tiên của Chi hội Văn nghệ Nam bộ thành lập từ năm 1952 giữa rừng U Minh, như các anh Diệp Minh Châu, Hà Mậu Nhai, Đoàn Giỏi, Quách Vũ, Dương Tử Giang, Huỳnh Văn Gấm, Chi Lăng, Ngọc Cung, Trương Bỉnh Tòng…
Trong số đó, có người tập kết ra Hà Nội đã nằm lại trong lòng đất thủ đô, những người ở lại miền Nam bị bắt bớ, tù đày cũng đã qua đời. Các anh ấy chỉ biết Hà Nội trong tưởng tượng, càng không thể hình dung có một Hà Nội của thơ như hôm nay với người cuối cùng còn sót lại của ban chấp hành xa xưa trở về Hà Nội đọc thơ!
Tôi cũng nghĩ tới những người bạn đã kết thân khi tôi từ miền Nam trở về Hà Nội năm 1956, đó là các anh Tử Phác, Đặng Đình Hưng, Trần Dần, Lê Đạt, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng, Dương Bích Liên, Phùng Quán, Phùng Cung, Hoàng Cầm, Hữu Loan… tất cả các anh ấy đều có một số phận không may và đã lần lượt kéo nhau ra đi về “Bến lạ” (tên một tập thơ của Đặng Đình Hưng). Và tôi lại trở thành một trong những kẻ sống sót để thụ hưởng những gì mà đáng lẽ các anh ấy đều được hưởng!
“Những năm đầu tiên tôi mới vào Sài Gòn, một buổi ngồi nói chuyện với nhà thơ Phan Vũ ở sân Nhà văn hóa quận 3, được anh đọc cho nghe một bài thơ. Nghe xong tôi nói với anh rằng tôi cảm giác bài thơ này có thể phổ nhạc được nhưng lúc ấy chưa định là sẽ phổ ra sao. Ngay tối hôm đó tôi đã viết “Em ơi, Hà Nội phố” trong nỗi nhớ của những ngày xa Hà Nội. Viết xong, hát cho anh Phan Vũ nghe, anh bảo âm nhạc đã làm cho bài thơ lung linh lên.
Lần đầu tiên bài hát được lên sóng phát thanh là năm 1987 với giọng hát của ca sĩ Lệ Thu. Cũng rất lạ, trước đấy Lệ Thu hát khá nhiều bài hát của tôi trên sân khấu kịch, có một lần cô ấy nói: “Sao anh chẳng cho em hát bài nào trên đài nhỉ”. Tôi đưa bài hát ấy cho Thu, nó vừa vặn và hợp với giọng hát cô ấy đến độ tưởng như bài hát ấy tôi “đo ni đóng giày” cho Thu. Sau này có nhiều người hát hay và thành công ca khúc này nhưng khán giả nói không ai hát hay hơn Lệ Thu lần đầu tiên ấy.
Tuy nhiên, bài hát cũng có số phận khá đặc biệt, đó là suýt nữa thì không được phát hành, và khi Nhà xuất bản Dihavina phát hành lần đầu thì bài Em ơi, Hà Nội phố đứng khiêm tốn ở mặt B trong danh mục ca khúc. Nhưng thật may là khán giả đã ưu ái và bài hát vẫn được nhiều người biết đến. Hơn nữa, bài hát này cũng mang đến cho tôi giải thưởng đầu tiên trong đời về âm nhạc”.
NGUYÊN VĂN BÀI THƠ “EM ƠI, HÀ NỘI PHỐ” CỦA PHAN VŨ
Em ơi! Hà – Nội – phố… Ta còn em mùi hoàng lan Ta còn em mùi hoa sữa. Tiếng giày ai gõ nhịp đường khuya? Cọt kẹt bước chân quen Thang gác Thời gian Mòn thân gỗ Ngôi sao lẻ lạc vào căn xép nhỏ…
Ta còn em chấm lửa Xập xòe Kỷ niệm… Một con đường Một ngôi nhà Khuôn mặt ai Dừng trong khung cửa… Những phong thư bỏ quên trong hộc tủ Không tên người, Không tên phố. Người gửi không tên. Ta còn em chút vang động lặng im, Âm âm tiếng gọi Trong lòng phố…
Em ơi! Hà – Nội – phố… Ta còn em một gốc cây, Một cột đèn Ai đó chờ ai? Tóc cắt ngang Xõa xõa bờ vai, Khung trời gió Con đường như bỏ ngỏ…
Ta còn em khăn choàng màu tím đỏ Thoáng qua Khuôn mặt chưa quen Bỗng xôn xao nỗi khổ Mỗi góc phố một trang tình sử.
Em ơi! Hà – Nội – phố… Ta còn em chuỗi cười vừa dứt Chút nắng còn le lói vườn hoang, Vàng ngọn cỏ. Cô gái khẽ buông rèm cửa, Anh chàng lệch mũ đi qua, Lời tỏ tình đêm qua dang dở… Ta còn em ngày vui cũ, Tàn theo mùa hạ. Tiếng ghita bập bùng tự sự, Đêm kinh kỳ thuở ấy xanh lơ…
Em ơi! Hà – Nội – phố… Ta còn em vầng trăng nửa Người phu xe đợi khách bến đầu ô. Tiếng rao đêm lạc giọng Ơ hờ… Căn gác trọ đường vào bằng cửa sổ Lão Mozart hàng xóm Bảy nốt cù cưa. Từng đêm quên giấc ngủ…
Ta còn em cây dương cầm Trong khung nhà đổ Lả tả trên thềm Bettho và sonate Ánh Trăng. Nốt nhạc thiên tài lẫn trong mảnh vỡ… Cô gái áo đỏ Venise Xa Hà Nội, Vẽ clavecin, Tập đàn Trên phản gỗ…
Ta còn em, một đêm lộng lẫy, Những tràng pháo tay vang dậy Cô gái dương cầm đứng giữa rừng hoa, Nước mắt lã chã trên tà áo đỏ Rồi một ngày tả tơi, Loạn gió Vườn Ngọc Hà Mất một mùa hoa. Đường Quan Thánh Bản giao hưởng ”Lặng Câm” Trong một ngôi nhà…
Ta còn em một đam mê, Một vật vã, Một dang dở, Một trống không, Một kiếp người, Những phím đàn long…
Em ơi! Hà – Nội – phố… Ta còn em ráng đỏ chiều hôm. Đôi chim khuyên gọi nhau trong bụi cỏ. Đôi guốc bỏ quên bên ghế đá Gã đầu trần thơ thẩn đường mưa…
Ta còn em một tên thật cũ Cổ Ngư Chiều phai nắng Cành phượng vĩ la đà Bông hoa muộn in hình ngọn lửa. Chiếc lá rụng Khỏi đầu nguồn gió Lao xao sóng biếc Tây Hồ Hoàng hôn xa đến tự bao giờ? Những bước chân tìm nhau Vội vội. Cuộc tình hờ bỗng chốc nghiêm trang…
Em ơi! Hà – Nội – phố… Ta còn em ngọn gió Nghi Tàm Thoáng mùi sen nở muộn. Nhớ Nhật Tân Mùa hoa năm ấy Cánh đào phai. Người dẫu ra đi vạn dặm dài. Gió ngọn vẫn vương hương phố cũ…
Em ơi! Hà – Nội – phố… Ta còn em cơn mưa rào qua nhanh Ướt bậc thềm Chiếc lá bàng đầu tiên nhuộm đỏ. Cô gái vội sang đường Chợt hồng đôi má. Một chút xanh hơn Trời Hà Nội Hôm qua… Ta còn em cô hàng hoa Gánh mùa thu qua cổng chợ Những chùm hoa tím Ngát Mùa thu…
Em ơi! Hà – Nội – phố… Ta còn em con đê lộng gió Dòng sông chảy mang hình phố. Cô gái dựa lưng bên gốc me già Ngọn đèn đường lặng thinh Soi bờ đá…
Ta còn em mùa nước đổ Mất tăm bãi Giữa Dòng sông Hồng Bè nứa xuôi nhanh, Con tàu nhổ neo, về bến. Hồi còi vọng Như một tiếng than dài: “Mùa này trăng vỡ trên sông”…
Ta còn em hàng cây khô, Buồn như dãy phố. Người bỏ xứ Quay nhìn lần cuối Đôi mắt nhòe với hạt sương tan “Người đi, ừ nhỉ, người đi thực!”… (1) Ly khách khẽ ngâm câu tống biệt Đành đoạn một lần dứt áo xanh.
Em ơi! Hà – Nội – phố… Ta còn em một Hàng Đào. Không bán đào. Một Hàng Bạc Không còn thợ bạc. Đường Trường Thi Không chõng, không lều Không ông nghè bái tổ vinh quy.
Ta còn em ngày đi Một nỗi mang tên nhớ. Ngày về phố cũ bỗng quên tên. Quên bậc đá, Quên mái hiên. Quên cây táo trồng ngay trước cửa. Thuở ấu thơ thỏa thích leo trèo… Ngày về ra rả tiếng ve Võng trưa hè kẽo kẹt “À ơi! Tùng tùng trống đánh ngũ liên Bước chân xuống thuyền Nước mắt như mưa…” Bài tập đọc Quốc văn giáo khoa thư Bà ru cháu ngủ Người về sững sờ bên cánh cửa, Tiếng ơi à… Gợi lại mảnh đời quên.
Em ơi! Hà – Nội – phố… Ta còn em chiếc xe hoa Qua hàng liễu rủ Cánh tay trần trên gác cao Mở cửa. Mùa xuân trong khung Đường phố dài Chi chít chồi sinh Màu ước vọng in hình xanh nõn lá Giò phong lan. Điệp vàng rực rỡ. Những gót son dập dìu đại lộ Bờ môi ai đậm đỏ bích đào?
Ta còn em tiếng trống tan trường. Màu thanh thiên lẫn trong liễu rủ Đêm hoa đăng tà áo nhung huyết dụ. Đất nghìn năm còn mãi dáng kiêu sa. Phường cũ lưu danh người đẹp lụa. Bậc thềm nào in dấu hài hoa?
Em ơi! Hà – Nội – phố… Ta còn em đường lượn mái cong Ngôi chùa cổ Năm tháng buồn xô lệch ngói âm dương. Ai còn ngồi bên gốc đại già? Chợt quên vườn hồng đã ra hoa. Chợt quên bên đường ai đứng đợi… Cuộc đời có lẽ nào Là một thoáng bâng quơ!
Trong một bài viết về nhạc phẩm “Bến Xuân”, chúng tôi có đề cập đến mối tình hay có thể chỉ là những rung động đầu đời của một chàng trai trẻ mới ngoài đôi mươi Văn Cao với người đẹp Hoàng Oanh. Hôm nay, để người yêu nhạc xưa có thêm thông tin, [dongnhacxua.com] xin trân trọng giới thiệu bản “Cô Láng Giềng” của nhạc sỹ Hoàng Quý, người anh cả của nhóm Đồng Vọng và cũng là một người bạn thân của Văn Cao.
Trong dòng nhạc tiền chiến, 2 ca khúc Bến xuân (của Văn Cao) và Cô láng giềng (của Hoàng Quý) chẳng có chút liên hệ. Tuy nhiên, hẳn ít ai biết đã có một “bóng hồng” chen vào giữa cuộc đời của họ.
Em đến tôi một lần
Không ai có thể phủ nhận sự tài hoa của nhạc sĩ Văn Cao – cây đại thụ của nền tân nhạc. 16 tuổi đã có sáng tác đầu tay (Buồn tàn thu, năm 1939) và các tình khúc tiếp theo của ông được sánh vào hàng “siêu phẩm”: Suối mơ, Thiên thai, Cung đàn xưa,Bến xuân, Thu cô liêu, Trương Chi… Vào đầu những năm 40 của thế kỷ trước, những bài hát của Văn Cao đã lan tỏa từ bắc chí nam. Người có công đầu là Phạm Duy, lúc đó chưa sáng tác nhạc mà đi theo đoàn cải lương Đức Huy – Charlie Miều lưu diễn xuyên Việt, Phạm Duy chuyên hát “phụ diễn”, bài hát ruột là Buồn tàn thu. Tri âm đến nỗi Văn Cao đã đề tặng dưới cái tựa Buồn tàn thu trong bản nhạc: “Tương tiến Phạm Duy, kẻ du ca đã gieo nhạc buồn của tôi đi khắp chốn”. Còn những người hát nhạc Văn Cao ở phía bắc là ca sĩ Kim Tiêu (nam), Thương Huyền, Thái Thanh (nữ)… Văn Cao sinh năm 1923 tại Lạch Tray (Hải Phòng) nên tham gia vào nhóm Đồng Vọng của nhạc sĩ Hoàng Quý. Cũng chính ở thành phố biển này, Văn Cao đã gặp một giai nhân để rồi dòng nhạc tiền chiến có thêm một viên ngọc lấp lánh: ca khúc Bến xuân (đồng sáng tác với nhạc sĩ Phạm Duy).
Trong cuốn băng video Văn Cao – Giấc mơ đời người (đạo diễn Đinh Anh Dũng, Hãng phim Trẻ sản xuất năm 1995, tái bản năm 2009), trong phần giới thiệu ca khúc Đàn chim Việt (tức Bến xuân), nhạc sĩ Văn Cao tâm sự: “Ngày xưa tôi có thầm yêu một người con gái mà không dám nói ra. Nhưng người ấy hiểu lòng tôi và đến với tôi. Vì thế nên mới có câu hát “Em đến tôi một lần” và có bài hát này”… Người con gái ấy chính là Hoàng Oanh, nữ ca sĩ ở Hải Phòng (sau này trong miền Nam cũng có nữ ca sĩ Hoàng Oanh hiện ở hải ngoại, không phải Hoàng Oanh trong bài viết). Nhưng tại sao nhạc sĩ Văn Cao yêu mà không dám nói? Là bởi con tim của nhạc sĩ “chậm xao động” hơn hai ông bạn thân. Biết được cả Kim Tiêu lẫn Hoàng Quý đều đem lòng yêu thương Hoàng Oanh, chàng nhạc sĩ trẻ đành nín lặng, ôm mối tình đơn phương… Tuy thế, sau những lần gặp gỡ, qua ánh mắt, nụ cười nàng đã hiểu tấm chân tình của chàng. Rồi một hôm, Văn Cao đang ở Bến Ngự (Hải Phòng) thì nàng tìm đến. Không chỉ thăm suông mà nàng còn ngồi làm mẫu cho chàng vẽ (Văn Cao còn là một nhà thơ kiêm họa sĩ), rồi ân cần ngồi quạt cho chàng sáng tác nhạc… Có thể nói ca khúc Bến xuân không chỉ là một bài hát làm xuyến xao lòng người mà còn là một bức tranh hết sức sống động, một bài thơ với những ca từ đầy biểu cảm. Tóm lại cả ba năng khiếu (thơ, nhạc, họa) tài hoa của Văn Cao đều dồn vào Bến xuân: “Nhà tôi bên chiếc cầu soi nước, em đến tôi một lần, bao lũ chim rừng hợp đàn trên khắp bến xuân”. Hình ảnh thẹn thùng, khép nép của giai nhân trong nhạc của Văn Cao sao mà đáng yêu chi lạ: “Mắt em như dáng thuyền soi nước. Tà áo em rung theo gió nhẹ thẹn thùng ngoài bến xuân”. Hôm đó có lẽ nàng cũng có hát nữa nên mới “nghe réo rắt tiếng Oanh ca”. Bản nhạc được NXB Tinh Hoa ấn hành năm 1942 với lời ghi “nhạc: Văn Cao, lời: Văn Cao – Phạm Duy” (sau này nhạc sĩ Văn Cao đặt lời mới và đổi tựa thành Đàn chim Việt). Chẳng biết nhạc sĩ Phạm Duy “đóng góp” như thế nào trong phần lời nhưng ở đoạn cuối, rõ ràng là tâm trạng của Văn Cao: “Nhà tôi sao vẫn còn ngơ ngác. Em vắng tôi một chiều. Bến nước tiêu điều còn hằn in nét đáng yêu. Từng đôi chim trong nắng khe khẽ ru u ù u ú. Lệ mùa rơi lá chan hòa” (dùng chữ “lệ mùa rơi lá” quá hay!). Cái cảnh chàng gột áo phong sương trở về bến cũ sao mà buồn đến nao lòng: “Người đi theo mưa gió xa muôn trùng. Lần bước phiêu du về chốn cũ. Tới đây mây núi đồi chập chùng. Liễu dương tơ tóc vàng trong nắng. Gột áo phong sương du khách còn ngại ngùng nhìn bến xưa”.
Nàng đến thăm chàng một lần, rồi… thôi, chừng đó cũng đủ hiểu lòng nhau và đã quá lãng mạn. Sau này gia đình ca sĩ Kim Tiêu có dạm hỏi Hoàng Oanh nhưng hôn sự bất thành vì gia đình nhà gái thách cưới cao quá. Bản thân Kim Tiêu cũng gặp phải nhiều sóng gió và nghe nói chết trong nghèo đói ở thềm ga Hàng Cỏ (Hà Nội). Rồi Hoàng Oanh lên xe hoa, trở thành vợ của nhạc sĩ Hoàng Quý.
Đôi mắt đăm đăm chờ tôi về
Nhạc sĩ Hoàng Quý sinh năm 1920 (lớn hơn Văn Cao 3 tuổi) và là thủ lĩnh nhóm Đồng Vọng ở Hải Phòng. Ông được biết tới như là một nhạc sĩ tiên phong sáng tác thể loại nhạc hùng, hát cộng đồng (tráng ca) với các ca khúc: Bên sông Bạch Đằng, Nước non Lam Sơn, Bóng cờ lau, Tiếng chim gọi đàn… Tuy nhiên, người ta nhớ đến Hoàng Quý nhiều nhất bởi ông là tác giả của ca khúcCô láng giềng bất hủ.
Thời điểm nhạc sĩ sáng tác Cô láng giềng cũng gần như cùng lúc với Văn Cao viết ca khúc Bến xuân (khoảng năm 1942, 1943). Lúc này Hoàng Quý phải rời Hải Phòng để lên Sơn Tây làm thư ký cho một trang trại nuôi bò. Chuyến đi khiến ông phải chia tay với người yêu (rất có thể là Hoàng Oanh). Ở Sơn Tây, Hoàng Quý luôn nhớ đến người yêu và mơ một ngày trở về. Đó là chất liệu để ông viết Cô láng giềng: “Hôm nay trời xuân bao tươi thắm. Dừng bước phiêu du về thăm nhà. Chân bước trên đường đầy hoa đào rơi, tôi đã hình dung nét ai đang cười… Tôi mơ trời xuân đôi môi thắm. Đôi mắt nhung đen màu hạt huyền. Làn tóc mây cùng gió ngàn dâng sóng. Xao xuyến nỗi niềm yêu… Cô láng giềng ơi! Tuy cách xa phương trời tôi không hề. Quên bóng ai bên bờ đường quê. Đôi mắt đăm đăm chờ tôi về…”.
Năm 2002, người viết có phỏng vấn nhạc sĩ Tô Vũ (em ruột nhạc sĩ Hoàng Quý), ông cho biết nhạc sĩ Hoàng Quý chỉ ở Sơn Tây 6 tháng rồi về quê. Trên đường về, ông có ghé Hà Nội thăm Tô Vũ (lúc đó còn dùng tên thật là Hoàng Phú) và đưa bản nhạc ra khoe với người em. Ông em (Tô Vũ) rất thích giai điệu của ca khúc này, liền xin phép đặt lời 2 cho bản nhạc. Đó là cảnh tượng và tâm trạng của chàng trai khi về tới đầu ngõ thì nghe tiếng pháo vu quy tiễn người yêu đi lấy chồng: “Trước ngõ vào sân vang tiếng pháo. Chân bước phân vân lòng ngập ngừng. Tai lắng nghe tiếng người nói cười xôn xao. Tôi biết người ta đón em tưng bừng… Đành lòng nay tôi bước chân ra đi. Giơ tay buồn hái bông hồng tường vi. Ghi chút tình em nói chờ đợi tôi. Đừng nói đến phân ly… Cô láng giềng ơi! Nay mối duyên thơ đành lỡ rồi. Chân bước xa xa dần miền quê. Ai biết cho bao giờ tôi về?”.
Hoàng Quý tham gia Việt Minh từ rất sớm và hoạt động tích cực trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật. Tiếc rằng tài hoa yểu mệnh, ông mất năm 1946 vì bệnh lao, khi mới 26 tuổi.
Người góa phụ trẻ Hoàng Oanh nửa đường gãy gánh không biết số phận sau này thế nào.
Có rất nhiều tác phẩm của nền nhạc xưa diễn tả về sự chia ly. Thế nhưng, theo thiển ý của DòngNhạcXưa, có thể nói không ngoa rằng “Biệt ly” của Dzoãn Mẫn là tác phẩm tiêu biểu nhất viết về sự ly biệt trong nền tân nhạc Việt.
“Biệt ly/ Nhớ nhung từ đây/ Chiếc lá rơi theo heo may/ Người về có hay…” – hơn bảy mươi năm nay, những ca từ đẹp như thơ và giai điệu mượt như nhung ấy đã chiếm lĩnh tâm hồn bao thế hệ. Khi viết “Biệt ly”, tác giả còn rất trẻ, chưa tới hai mươi tuổi, vậy nhưng nỗi nhớ thương, sầu tủi ẩn chứa trong lời ca thì vô cùng thấm thía. Chính “Biệt ly” chứ không phải tác phẩm nào khác sẽ đưa tên tuổi của tác giả – nhạc sĩ Doãn Mẫn – mãi mãi neo lại với thế gian.
Cùng với các nhạc sĩ: Nguyễn Xuân Khoát, Văn Chung, Đặng Thế Phong, Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước…; Doãn Mẫn còn được ghi nhận là một trong những người “khai sơn phá thạch” mở đường cho nền tân nhạc Việt Nam…
Nhạc sĩ Doãn Mẫn sinh năm 1919 tại làng Hoàng Mai, Hà Nội. Cụ thân sinh ra ông là một viên chức làm việc ở ga Hàng Cỏ. Mặc dù không theo nghề nhạc song cụ rất đam mê nhạc dân tộc, đặc biệt là “món” đàn bầu. Được cha hướng dẫn, từ nhỏ Doãn Mẫn đã biết chơi một số nhạc cụ truyền thống. Song ông không lấy đó làm ngón nghề mưu sinh. Sau khi tốt nghiệp trường Sư phạm, Doãn Mẫn vào làm một chân thư ký tại Bệnh viện Bạch Mai.
Không được học hành bài bản về âm nhạc nhưng với niềm khao khát bản năng, Doãn Mẫn tự mày mò trang bị kiến thức nhạc lý cho mình qua sách báo, mà chủ yếu là sách báo Pháp. Khi “vốn liếng” đã hòm hòm, ông chuyển sang việc đàn hát – thoạt đầu với tư cách một nhạc công, tiếp đó, ông bắt chước soạn lời (ta) cho các điệu nhạc Tây.
Sau này, nhạc sĩ Doãn Mẫn đã hồi cố lại cái thuở chập chững đến với âm nhạc của mình: “Vào khoảng năm 1936 -1937, khi phong trào âm nhạc cải cách phát triển, những ca khúc do người Việt Nam sáng tác xuất hiện thì tôi gặp lại Lê Yên, cũng không nhớ rõ trong hoàn cảnh nào. Chúng tôi rất vui được gặp lại nhau, cùng chung chí hướng trên con đường nghệ thuật mới mẻ… Yên và tôi thường bổ sung cho nhau về kiến thức âm nhạc và kinh nghiệm sáng tác, trao đổi tác phẩm, vì lúc đó chúng tôi đều là những người tự học, hoàn toàn sáng tác theo bản năng.…Cũng trong thời gian này (1936-1939), chúng tôi có thêm một người bạn chí cốt: Văn Chung. Là công nhân một nhà in tư nhân phố Hàng Điếu, cạnh rạp chiếu phim Olympia (rạp Hồng Hà ngày nay), Văn Chung là một con người tháo vát, có nhiều sáng kiến trong tổ chức biểu diễn và xuất bản, in ấn”.
Cũng theo hồi ức của Doãn Mẫn thì năm 1938, sau khi xuất hiện bản nhạc in đầu tiên được bán trên thị trường là bài “Hồ xưa” của Thẩm Oánh, nhạc sĩ Văn Chung đã chủ trương in các bài hát của mấy anh em (gồm Văn Chung, Lê Lôi và Doãn Mẫn) đứng tên nhà xuất bản Tricea (từ đó, giới âm nhạc thường gọi nhóm ba nhạc sĩ này là nhóm Tricea). Số lượng các bản nhạc được in ra mỗi lần vào khoảng 1.500 đến 2.000 bản, bán hết veo, vốn thu hồi nhanh.
Đến nay, có thể xem “Tiếng hát đêm thu” là ca khúc đầu tay của Doãn Mẫn. Nó ra đời năm 1937, với sự hỗ trợ phần lời của nhạc sĩ Văn Chung. Cùng năm đó, Doãn Mẫn còn có “Gió thu”. Tới năm 1939, người nhạc sĩ trẻ đã nhanh chóng bứt lên, trở thành một trong những tên tuổi sáng giá trong làng tân nhạc Việt Nam với ca khúc “Biệt ly” hiện vẫn là “bài ca đi cùng năm tháng”.
Cũng giống như nhà thơ Tế Hanh, kỷ niệm từ những lần thơ thẩn dạo chơi ngoài sân ga, chứng kiến bao sự biệt ly của những người vì nhiều lý do phải dứt áo chia tay nhau, đã viết nên những vần thơ đầy chua xót (bài “Ga”), Doãn Mẫn do có người cha làm ở Ga Hàng Cỏ, là nơi chứng kiến nhiều cuộc chia ly đầy bi lụy của bao gia đình, bao cặp tình nhân, đã xúc động viết nên ca khúc “Biệt ly”, nhạc phẩm để đời của ông.
Đây là nguyên văn ca từ của bài hát:
Biệt ly nhớ nhung từ đây Chiếc lá rơi theo heo may Người về có hay
Biệt ly sóng trên dòng sông Ôi còi tàu như xé đôi lòng Và mây trôi nước trôi Ngày tháng trôi cùng lướt trôi
Mấy phút bên nhau rồi thôi Đến nay bóng em mờ khuất Người về u buồn khắp trời Người ra đi với ngàn nhớ thương
Mấy phút bên em rồi thôi Dáng em sống trong hồn tôi Xa cách ta còn tìm đâu ngày vui
Biệt ly ước bao đường tơ Réo rắt trong muôn hương mơ Thành sầu tiễn đưa
Biệt ly ước mong hoàng hôn Êm đềm về ru ấm tâm hồn Người yêu đương cách xa Đành sống vui cùng gió sương.
Với một số nghệ sĩ, sau khi tác phẩm của họ được phổ biến rộng rãi, trở thành một thứ “huyền thoại” trong lòng công chúng, họ thường hay thêm thắt ít nhiều, như vẽ ra mối tình này mối tình nọ nhằm tô điểm thêm cho sự lãng mạn của đời mình. Doãn Mẫn không vậy. Khi được hỏi về các hình mẫu phụ nữ trong một số nhạc phẩm tiêu biểu của mình, ông thật thà: “Tôi bịa ra đấy. Tất cả chỉ là chuyện…bịa”. Nhân vật “em” trong “Biệt ly” cũng là trường hợp như vậy. Doãn Mẫn từng kể: “Tôi viết Biệt ly năm tôi vừa 20 tuổi. Hồi đó, cha tôi làm việc ở ga Hàng Cỏ, Hà Nội. Nhà ở gần ga nên tôi thường hay ra ga chơi, chứng kiến nhiều cuộc chia tay đầy nước mắt trên sân ga, nhất là những đôi trai gái yêu nhau nhưng vì hoàn cảnh phải ly biệt. Điều đó khơi dậy trong lòng tôi nhiều cảm xúc và tôi có ý định sáng tác một bài hát về đề tài chia ly. Tôi nghĩ rằng tôi sáng tác bài Biệt ly với rất nhiều kỷ niệm. Qua những cuộc chia ly mà tôi được chứng kiến ở sân ga Hà Nội, ở bến cảng Hải Phòng đã cho tôi rất nhiều xúc động. Tôi đã dự kiến làm bài Biệt ly này từ năm 1937, tức là năm tôi bắt đầu sáng tác. Nhưng mà rồi có nhiều trường hợp khác cho nên tôi lại viết về chủ đề khác, cho đến năm 39, có mấy việc dồn dập đến, tôi trở lại đề tài này”.
Nếu như nhiều ca khúc mới của nhóm Tricea thường được “thâm nhập cuộc sống” bằng cách, hoặc được tổ chức hát tại các gia đình, hoặc trong các dịp diễn kết hợp với các buổi chiếu phim lấy tiền giúp các hội từ thiện thì quá trình phổ biến của “biệt ly” cũng tương tự vậy. Theo như nhạc sĩ Doãn Mẫn thổ lộ thì lần đầu tiên ca khúc “Biệt ly” được công bố là vào năm 1940 ở Hà Nội. Người đầu tiên hát bài này là một giọng ca được yêu mến lúc bấy giờ, có tên là Phụng (tác giả không nhớ nghệ danh), nhà ở ngõ chợ Khâm Thiên. Cũng nhờ những buổi biểu diễn ở các rạp chiếu phim, phần nữa “do anh em ở trường Bưởi làm ca cảnh, cho nên Biệt ly mới được phổ biến”.
Khi được hỏi, đến nay, ai là người thể hiện ca khúc “Biệt ly” hay nhất, nhạc sĩ Doãn Mẫn tỏ ra khá thận trọng. Ông cho biết, có một thời gian dài, “Biệt ly” không được lên sân khấu. Nó chỉ được công diễn trở lại kể từ năm 1988. Và trong số các ca sĩ thể hiện bài hát mà ông trực tiếp “thẩm định” thì “có lẽ Lan Ngọc ở trong Nam và Thùy Dung ở ngoài Bắc là thể hiện được cái ý tình mà tôi muốn gửi gắm” (theo một bài viết in trên Báo Thanh niên). Doãn Mẫn cũng than phiền là nhiều người rủ nhau đi hát nhạc tiền chiến như một thứ “mốt”, song không mấy quan tâm tới việc hát thế nào cho đúng nhạc. Và ông than thở: “Nhiều bài của tôi được phối khí lại mà tôi còn chẳng nhận ra. Làm mới, không có nghĩa là làm khác đi”.
Sinh thời, nhạc sĩ Doãn Mẫn từng có tới 20 năm giữ chức Trưởng phòng Giáo vụ của Nhạc viện Hà Nội. Đó là thời gian ông “phải đi lo cả việc học viên có con nhỏ không ăn được thì phải làm thế nào, chỗ ăn, ở, nhà vệ sinh bẩn thỉu thì làm sao”. Nói chung, đó là quãng thời gian ông chỉ thuần túy với công việc hành chính, sự vụ chứ không sáng tác được gì. Và người từng được xem là một trong những nhạc sĩ có công khai mở nền tân nhạc Việt Nam chỉ sáng tác trở lại khi đã ở tuổi ngoại bảy mươi.
Trong sự nghiệp âm nhạc của mình, nhạc sĩ Doãn Mẫn chỉ sáng tác chừng 50 bài, trong đó, những ca khúc như “Biệt ly”, “Hương cố nhân” được xem là những nhạc phẩm xuất sắc nhất.
Nhạc sĩ Doãn Mẫn qua đời ngày 13 tháng 4 năm 2007. Rất nhiều người hay tin đã xếp hàng dài đến tiễn đưa ông về nơi an nghỉ cuối cùng. Điều này vừa là thể hiện sự mến mộ của người đời đối với những nhạc phẩm bất hủ của ông, vừa là thể hiện sự trân trọng của họ với một con người có nhiều phẩm chất đáng yêu, đáng mến. Không phải ngẫu nhiên mà nhạc sĩ Hoàng Giác (tác giả “Mơ hoa”) đã có lần phải thốt lên: “Người mà tôi quý nhất là anh Doãn Mẫn”
Tiếp nối dòng nhạc của nhạc sỹ Hoàng Giác, [dongnhacxua.com] giới thiệu bản nhạc nổi tiếng và cũng gây nhiều phiền toái nhất cho nhà nhạc sỹ: nhạc phẩm “Ngày về”.
Tôi gặp người nhạc sĩ 87 tuổi, tác giả hai tuyệt phẩm “Mơ hoa” và “Ngày về” trong một hoàn cảnh thật đặc biệt: Trong vòng 10 năm nay, tôi thay đổi tới mười mấy chỗ ở trong thành phố Hà Nội, còn nhạc sĩ Hoàng Giác thì gần nửa thế kỷ trôi qua, bây giờ mới có một lần duy nhất thiên di. Ông tạm biệt địa chỉ 124 Hàng Bạc, vốn gắn với tên tuổi ông từ nửa cuối của thế kỷ trước để giờ chuyển về 115 A8 Đầm Trấu, một khu đô thị mới được xây dựng và phát triển khoảng mươi năm trở lại đây. Và nhà tôi cách nhà ông chỉ chừng 500m, một khoảng cách đủ để tôi dễ dàng nhìn thấy ông, ngày hai lần đi bộ thể dục hoặc ngẫu hứng uống một cốc bia hơi bên kia đường, quán bia 38 Nguyễn Huy Tự.
Lần đầu tiên được diện kiến ông, tôi xúc động tới mức không biết mình đang nói gì. Dường như tôi nói về những năm tháng đã qua trong đời tôi, về bao nhiêu năm tôi vui buồn trong âm nhạc của ông, khi những bài hát đã thấm vào hồn tôi một tình yêu thiết tha quê hương xứ sở, nó miên man, hoài niệm và dặt dìu, nó tưới mát cho sự cằn khô của một đứa con xa quê như tôi. Nhạc sĩ Hoàng Giác sinh năm 1924 trong một gia đình giàu truyền thống, quê gốc ông ở làng Chèm, nay thuộc xã Thụy Phương, huyện Từ Liêm, Hà Nội, một trong những làng Việt cổ nổi tiếng bên bờ sông Cái với câu thành ngữ đã trở thành quen thuộc: Giò Chèm, nem Vẽ. Cha của ông là một nghệ sĩ chơi đàn bầu rất hay, nhưng cụ cũng đồng thời lại là một võ sĩ quyền Anh, từng giữ đến chức Chủ tịch Liên đoàn quyền Anh Bắc Kỳ.
Hoàng Giác được cha cho theo học tại Trường Bưởi danh tiếng, và cảm hứng âm nhạc đã đến với ông ngay từ những năm tháng còn ngồi trên ghế nhà trường. Học cùng lớp với ông ngày đó là các tên tuổi sau này trở thành những nhạc sĩ nổi tiếng trong nền tân nhạc Việt Nam như Dzoãn Mẫn (tác giả Biệt ly), Ngọc Bích (tác giả Mộng chiều xuân, Hương tình), Đoàn Chuẩn (tác giả hàng chục tình khúc nổi tiếng viết chung với Từ Linh). Hoàng Giác được học nhạc trong Trường Bưởi nhưng phần tự học thêm của ông cũng như của tất cả các nhạc sĩ tân nhạc đương thời mới là quan trọng. Và năng khiếu âm nhạc của ông sớm khẳng định ngay từ bài hát đầu tay được công bố: nhạc phẩm “Mơ hoa” ra mắt công chúng khi ông mới 21 tuổi và được đón nhận nhiệt liệt, không kém gì các sáng tác của hai bậc đàn anh đi trước là Phạm Duy và Văn Cao.
Năm 1947, tuyệt phẩm thứ hai được công bố và đây là sáng tác Hoàng Giác ưng ý nhất trong đời viết nhạc của mình: ca khúc “Ngày về“. Số phận của ca khúc này trong lịch sử âm nhạc Việt Nam cũng thật lắm thăng trầm. Sau khi được một số ca sĩ hát ở ngoài Bắc, vào cuối thập niên 60 của thế kỷ trước, rất ngẫu nhiên, giai điệu của “Ngày về” được chính phủ Việt Nam cộng hòa chọn làm nhạc hiệu cho chương trình Chiêu hồi. Vì tình huống nhạy cảm này mà mãi đến sau 1975, bài “Ngày về” mới được hát trở lại ở ngoài Bắc với nhiều giọng ca nổi tiếng như tài tử Ngọc Bảo, Cao Minh, Lê Dung, Ngọc Tân… nhưng Hoàng Giác ưng ý nhất vẫn là giọng hát Mai Hoa.
Ông Hoài Nam ở Đài SBS Úc Châu kể rằng, bài “Ngày về” trong thời kỳ kháng chiến được các lính Pháp đến Việt Nam rất thích nghe, dù họ không thể hiểu hết nội dung của bài hát. Phải chăng, đó là sự đồng cảm của những người con cùng phải xa quê hương, và bởi vì ngôn ngữ âm thanh của “Ngày về” đã ngân đúng vào nỗi biệt ly mong ước ấy. Nhà thơ Du Tử Lê (tác giả bài thơ “Khúc thụy du” nổi tiếng được Anh Bằng phổ nhạc) trong lần đầu tiên trở lại Việt Nam sau 1975 đã tìm đến nhạc sĩ Hoàng Giác, chỉ để xin một dòng thủ bút duy nhất cùng chữ ký của người nhạc sĩ: Tung cánh chim tìm về tổ ấm. Sau hai ca khúc kể trên, nhạc sĩ Hoàng Giác còn viết tiếp khoảng 16 nhạc phẩm nữa mà những bài được nhiều người biết đến nhất là Hương lúa đồng quê, Lỡ cung đàn, Quê hương, Bóng ngày qua. Toàn bộ 18 nhạc phẩm của nhạc sĩ Hoàng Giác, hầu hết đều được sáng tác trước 1954.
Nói đến Hoàng Giác, người yêu nhạc xưa sẽ nghĩ ngay đến hai bản nổi tiếng: “Mơ hoa” và “Ngày về”. Trong bài viết này [dongnhacxua.com] xin mời quý vị thưởng thức sáng tác đầu tay của nhà nhạc sỹ tiền bối.
Số tác phẩm của nhạc sĩ Hoàng Giác chỉ đếm trên đầu ngón tay. Nhưng trong số đó đã có 2 tuyệt phẩm là Mơ hoa và Ngày về. Đó là niềm hạnh phúc và cũng là “tai ương” cho tác giả.
Định mệnh đã đưa đến cho nhạc sĩ Hoàng Giác một người vợ “trên cả tuyệt vời” để đồng cam cộng khổ, để là điểm tựa tinh thần cho chồng trong giai đoạn lao đao nhất của đời mình. Nói về sắc đẹp, bà Kim Châu (vợ nhạc sĩ) được tôn vào hàng “giai nhân đất Hà thành”. Biết bao chàng công tử phong lưu cầu cạnh được kề cận bên người đẹp, thế nhưng bà Kim Châu đã rũ bỏ tất cả để về “nâng khăn sửa túi” cho chàng nhạc sĩ tuy nghèo nhưng rất mực tài hoa, đúng như ước nguyện của mình.
Hoàng Giác sinh năm 1924, gốc làng Chèm (xã Thụy Phương, Từ Liêm, Hà Nội). Làng Chèm có nghề làm chả giò truyền thống trong câu thành ngữ “giò Chèm, nem Vẽ”. Cha của ông là một nghệ nhân chơi đàn bầu rất hay đồng thời cũng là một võ sĩ quyền anh, từng giữ chức Chủ tịch Liên đoàn Quyền anh Bắc kỳ. Hoàng Giác được theo học ở Trường Bưởi – một ngôi trường rất nổi tiếng thời đó. Bạn học cùng lớp với ông nhiều người sau này trở thành những nhạc sĩ nổi tiếng như Dzoãn Mẫn (tác giả Biệt ly), Ngọc Bích (tác giả Mộng chiều xuân), Đoàn Chuẩn (tác giả Thu quyến rũ)… Hoàng Giác được học nhạc trong nhà trường nhưng cũng giống bạn bè đồng lứa, còn mày mò tự học thêm. Những sáng tác đầu tay của thế hệ ấy đa phần ra đời trong giai đoạn này.
Nhưng bản nhạc đầu tay của Hoàng Giác không phải làm tặng cho… người đẹp Kim Châu. Ông kể: “Lúc bấy giờ, chúng tôi phần nhiều ở lứa tuổi 18, 19, cho nên rất mơ ước có những bài hát của người Việt làm với lời Việt. Lứa tuổi chúng tôi lúc đó hầu hết là học sinh, đều say sưa viết. Mơ hoa cũng là một trong những bài tôi viết thời đó. Đấy là năm 1945, tôi vừa tốt nghiệp Trường Bưởi, ở gần nhà tôi có một thiếu nữ trong Hà Đông ra, cô mới tuổi 16 thôi. Dáng người cô thon nhẹ, tóc dài. Chúng tôi gặp gỡ, trao đổi và có những tình cảm quyến luyến như những chàng trai, cô gái tuổi mới lớn khác. Nhìn cô, tôi liên tưởng ngay đến các cô ở làng hoa Ngọc Hà mà sáng sáng tôi hay gặp trên đường đi học. Thế là tôi mơ ước viết một bài để tặng cô ấy, tức nhiên trong lòng đã mang một giấc mơ. Và đấy là bản nhạc đầu tay trong cuộc đời sáng tác của tôi”.
Người yêu nhạc xưa hẳn không xa lạ gì với bản “Đêm đông” bất hủ của nhạc sỹ Nguyễn Văn Thương. Bài viết này xin gởi thêm đôi chút chuyện bên lề để quý vị gần xa hiểu thêm về nhà nhạc sỹ lão thành và hoàn cảnh ra đời của “Đêm đông”. Những đợt gió lạnh đầu đông cũng đã tràn về, [dongnhacxua.com] xin thay mặt người yêu nhạc thắp một nén hương lòng để sưởi ấm linh hồn nhà nhạc sỹ của chúng ta nơi chín suối.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương sinh ra ở Thừa Thiên – Huế, trong một gia đình yêu nghệ thuật. Ngay từ năm mới lên 9 tuổi, ông đã được học đàn nguyệt rồi tự học ký xướng âm qua sách vở. Năm 1936, tốt nghiệp Trường Quốc học Huế, Nguyễn Văn Thương đã sáng tác ca khúc đầu tay “Trên sông Hương” – một ca khúc hiện được xem như một trong những tác phẩm tân nhạc đầu tiên ở đất cố đô.
Cố Giáo sư – nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương (1919 – 2002) là một nhà văn hóa lớn, một trong những nhạc sĩ thuộc thế hệ tân nhạc đầu tiên của ViệtNam. Thành tựu của ông được ghi nhận ở nhiều thể loại (ca khúc, nhạc múa, nhạc phim…) và trên nhiều lĩnh vực (sáng tác, biểu diễn, đào tạo). Sinh thời, nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương từng đảm trách các vị trí: Trưởng đoàn Ca múa nhạc Việt Nam, Giám đốc Nhạc viện Hà Nội…; từng được Nhà nước phong tặng danh hiệu NSND, được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật… Tuy nhiên, điều hạnh phúc nhất đối với ông có lẽ vẫn là: Với đông đảo công chúng, thay vì mọi sự giới thiệu dài dòng, chỉ cần giới thiệu Nguyễn Văn Thương – tác giả của nhạc phẩm “Đêm đông” thì hết thảy mọi người đều biết, và chắc chắn tất cả đều dành cho ông sự yêu thương, cảm mến, đặc biệt là với những phận người lang thang cơ nhỡ. Bởi “Đêm đông” thực sự là một kiệt tác, và chắc chắn là một trong những ca khúc viết về mùa đông hay nhất, thấm thía nhất ở Việt Nam từ trước tới nay.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương sinh ra ở Thừa Thiên – Huế, trong một gia đình yêu nghệ thuật. Ngay từ năm mới lên 9 tuổi, ông đã được học đàn nguyệt rồi tự học ký xướng âm qua sách vở. Năm 1936, tốt nghiệp Trường Quốc học Huế, Nguyễn Văn Thương đã sáng tác ca khúc đầu tay “Trên sông Hương” – một ca khúc hiện được xem như một trong những tác phẩm tân nhạc đầu tiên ở đất cố đô.
Tuy nhiên, nổi tiếng nhất trong những ca khúc được Nguyễn Văn Thương sáng tác thời kỳ trước Cách mạng vẫn là “Đêm đông”. Về xuất xứ của ca khúc này, nhạc sĩ từng tiết lộ: Vào dịp Tết năm 1939 (thời gian này ông đang theo học tại Trường Thăng Long – Hà Nội), do kẹt tiền nên ông không thể về quê ăn Tết với gia đình. Lần đầu tiên phải ăn Tết xa nhà, chàng trai trẻ rất buồn. Năm ấy, Hà Nội rét dữ. Để chống lạnh, có bao quần áo, ông “nhồi” tất vào người, rồi như một thói quen bản năng, ông cứ thế rời phòng trọ lững thững đi về phía Ga Hàng Cỏ, để rồi bần thần nhớ ra là mình… không có vé tàu.
“Khi tàu chuyển bánh, tôi cũng theo tàu đi về phương Nam, dọc theo đường Nam Bộ bây giờ. Tiếng còi tàu mỗi lúc một xa càng làm tăng thêm nỗi nhớ nhà da diết! Đến chỗ chắn tàu ở phố Khâm Thiên, tôi chợt nảy ra ý định đi tìm những người cùng cảnh ngộ với mình trong đêm nay. Phố Khâm Thiên hồi ấy có nhiều nhà hát ả đào. Tôi muốn xem trong đêm giao thừa này, có người nào không ở nhà với gia đình mà đi hát. Hoặc ca nhi nào, vì kế sinh nhai mà phải ở lại hành nghề không?
Đêm ấy, có hai nhà còn để đèn ngoài cổng để chờ khách. Tôi đi qua nhà đầu tiên. Cửa mở, nhưng không có người ra. Đến nhà thứ hai thì có một ca nhi đi ra mở cửa. Nhưng khi nhìn thấy một cậu thanh niên, tuổi vừa đôi mươi, ăn mặc lôi thôi thì cô ta đã thất vọng. Khi quay trở vào, cô không quên soi mình trong tấm gương treo cạnh cửa, và đưa cánh tay trần vuốt nhẹ lên mái tóc. Tôi còn đi lang thang mãi trên nhiều đường phố Hà Nội tối hôm đó – cho đến khuya, khi thấy các bà mang hương, đèn ra cúng trước thềm nhà tôi mới quay về căn gác trọ số 10 ngõ Hội Vũ. Lên giường nằm, nhưng nỗi nhớ nhà và cảm giác cô đơn nơi đất khách khiến tôi không tài nào ngủ được. Và nảy ra ý định sáng tác một bài hát để nói lên cảm xúc và suy nghĩ của mình trong đêm giao thừa đầu tiên phải xa nhà.
Tôi đã đưa vào ca khúc hình ảnh thực tế đã đập vào mắt tôi lúc đi qua phố Khâm Thiên. Đó là người “ca nhi đối gương ôm sầu riêng bóng”. Còn “Thi nhân lắng nghe tâm hồn tương tư” hoặc “Cô lữ đêm đông không nhà” là hình ảnh của bản thân mình – còn chinh phu, chinh phụ là những hình ảnh mượn từ trong Tiểu thuyết Thứ Bảy của Tự Lực Văn Đoàn rất thịnh hành lúc bấy giờ, chứ ta có đi chinh phục ai đâu mà có chinh phu để nói!” (theo ghi chép của Tôn Nữ Hỷ Khương).
Để bạn đọc tiện theo dõi mạch cảm xúc của người nhạc sĩ, xin trích ra đây phần lời 1 của bài hát: “Chiều chưa đi màn đêm rơi xuống/ Đâu đấy buông lững lờ tiếng chuông/ Đôi cánh chim bâng khuâng rã rời/ Cùng mây xám về ngang lưng trời/ Thời gian như ngừng trong tê tái/ Cây trút lá cuốn theo chiều mây/ Mưa giăng mắc nhớ nhung, tiêu điều/ Sương thướt tha bay, ôi! đìu hiu/… Đêm đông, xa trông cố hương buồn lòng chinh phu/ Đêm đông, bên song ngẩn ngơ kìa ai mong chồng/ Đêm đông, thi nhân lắng nghe tâm hồn tương tư/ Đêm đông, ca nhi đối gương ôm sầu riêng bóng/ Gió nghiêng chiều say/ Gió lay ngàn cây/ Gió nâng thuyền mây/ Gió reo sầu miên/ Gió đau niềm riêng/ Gió than triền miên/ Đêm đông, ôi ta nhớ nhung/ Đường về xa xa/ Đêm đông, ta mơ giấc mơ gia đình, yêu đương/ Đêm đông, ta lê bước chân phong trần tha phương/ Có ai thấu tình cô lữ, đêm đông không nhà…”.
Một khán giả, sau khi nghe bài hát đã có những nhận xét rất tinh tế: “Nếu nói về thời tiết thì không phải mùa đông nào cũng nhiều gió, nhưng trong “Đêm đông” có rất nhiều gió và chính gió đã làm nhạc phẩm “Đêm đông” bất hủ với thời gian”. Về việc từ cảm thức nào tác giả lại đưa nhiều hình tượng gió vào trong tác phẩm đến vậy, nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương giải thích: Gác trọ tôi ở chỉ có một cửa sổ làm bằng gỗ. Mùa đông hanh khô, nên có nhiều kẽ hở, gió luồn qua đó, tạo những âm thanh y như tiếng sáo, lúc như tiếng rít não ruột, da diết. Vì vậy mà ở đoạn giữa điệp khúc, có sáu câu tả về gió: “Gió nghiêng chiều sang/ Gió lay ngàn cây/ Gió nâng thuyền mây/ Gió reo sầu miên/ Gió đau niềm riêng/ Gió than triền miên”.
Đấy là nói về gió, còn về tiếng chuông? Trước đây, căn cứ vào giai điệu của bài hát, cũng như vào câu “Đâu đấy buông lững lờ tiếng chuông” mà có ý kiến cho rằng, bài hát được sáng tác theo chiều hướng phục vụ… nhà thờ Công giáo. Không phải vậy. Đây là trả lời của nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương, trích từ lá thư viết ngày 4/11/1997 của ông: “Đâu đấy buông lững lờ tiếng chuông. Tiếng chuông buông lững lờ, chỉ có thể là tiếng chuông chùa. Nhưng không cứ gì tôi phải đi ngang qua một ngôi chùa, mà chỉ cần nghe tiếng chuông; thường những người tu tại gia, khi niệm kinh buổi chiều, vẫn thỉnh thoảng gõ chuông từ một gác thờ nào đó. Vì tôi đi từ nhà ra ga Hàng Cỏ, qua phố Khâm Thiên rồi đi lang thang khắp các nẻo đường trước khi trở về gác trọ thì có thể nghe được nhiều lần tiếng chuông ấy lững lờ buông. Còn nếu tiếng chuông nhà thờ thì phải dùng chữ chuông đổ, chứ không thể dùng buông lững lờ được”.
Mặc dù cảm hứng đến một cách “xuất thần” như vậy, song đêm hôm ấy, bài hát mới chỉ chốt lại ở việc: Khổ nào cũng bắt đầu bằng điệp khúc “Đêm đông”, trừ câu kết thì đổi thành “Có ai…”. Sau một thời gian, Nguyễn Văn Thương và một học trò theo học guitar với ông tên là Kim Minh (đã mất năm 1946) cùng trau chuốt lại lời ca, bài hát kể như mới chính thức hoàn thành (có một thời, bài hát được đề tác giả phần ca từ là Nguyễn Văn Thương và Kim Minh).
Nhân đây, cũng cần nói thêm là, ngày ấy, Nguyễn Văn Thương rất mong có được cây đàn guitar Hawaii được bày bán ở hiệu đàn Đông Phát, phố Cầu Gỗ. Cây đàn có giá một đồng rưỡi. Một hôm, Nguyễn Văn Thương quyết định đặt trước 5 hào cùng tấm thẻ căn cước để lấy cây đàn, hẹn ít tháng nữa sẽ thanh toán nốt. Phải ba tháng sau ông mới gom đủ tiền để lấy thẻ căn cước về. Tuy nhiên, đủ tiền đàn thì lại không đủ tiền tàu xe để về quê ăn Tết. Đó là lý do để ông có một cái Tết lang thang ngoài Hà Nội, để rồi bất ngờ sáng tác nên một kiệt tác. Điều thật có ý nghĩa là chàng nhạc sĩ đã khai sinh ra một giai điệu bất hủ trên chính cây đàn trả góp ấy.
Ca khúc “Đêm đông” từng được rất nhiều thế hệ ca thể hiện, từ Ngọc Bảo, Quang Thọ, Lê Dung tới Cẩm Vân, Đàm Vĩnh Hưng… Nếu như tân nhạc những năm ba mươi, bốn mươi của thế kỷ trước chỉ có các điệu tango, valse, boston… thì vào những năm đầu thập niên sáu mươi, nữ ca sĩ Bạch Yến chính là người đầu tiên hát “Đêm đông” theo điệu slow – rock (chứ không phải điệu tango như thuở bài hát ra đời). Từ đó, bài hát càng có cơ hội đi vào đời sống tâm tình của giới trẻ…
Hà Nội luôn là đề tài muôn thưở trong thi ca và âm nhạc. Riêng với dòng nhạc xưa, có lẽ bản ‘Hướng Về Hà Nội’ của Hoàng Dương là một tác phẩm tiêu biểu nhất cho tâm trạng ngậm ngùi của những ai phải xa rời mảnh đất đã có quá nhiều kỷ niệm. [dongnhacxua.com] xin trân trọng giới thiệu ca khúc bất hủ này đến người yêu nhạc.
Hơn 50 năm trước, vào một đêm bom đạn tơi bời của người Pháp dội về Hà Nội , từ bên kia thành phố, nhạc sĩ Hoàng Dương đã xúc cảm viết nên ca khúc “Hướng về Hà Nội” trong nỗi nhớ vô bờ của một thời ly hương, loạn lạc…
Hoàng Dương, tên đầy đủ là Ngô Hoàng Dương, con trai của Nhà văn – Nhà báo Trúc Khê Ngô Văn Triện (danh nhân văn hóa Hà Nội). Hoàng Dương là một nghệ sĩ đàn cello, người có công đầu xây dựng bộ môn cello, khoa đàn dây tại Nhạc viện Hà Nội. Với nhiều đóng góp lớn trong nền âm nhạc nước nhà, PGS Hoàng Dương được tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân, Nghệ sĩ ưu tú và Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2007 trong lĩnh vực sáng tác. Hoàng Dương viết nhiều tác phẩm khí nhạc như: Hát ru, Mơ về trái núi Thiên Thai (cello và piano), Tiếng hát sông Hương (cello và dàn nhạc)…Đối với ca khúc, ông viết không nhiều với các nhạc phẩm: Hướng về Hà Nội, Chiều cuối năm, Tiếc thu, Ôi giấc mơ xưa. Trong đó, 2 ca khúc nổi tiếng được mọi người biết đến là “Hướng về Hà Nội” với điệu slow và “Tiếc thu” điệu tango, cả hai đều có âm hưởng buồn, giọng “mineur”.
Trong sự nghiệp âm nhạc của mình, nhạc sĩ Hoàng Dương chịu ảnh hưởng từ tính cách và lãng mạn của cha mình. Ngày ấy, Trúc Khê làm báo ở Hà Nội, cuối tuần, ông lại về Từ Liêm với vợ và các con. Nhà nghèo nhưng cha của Hoàng Dương vẫn thiết kế một ngọn núi và con sông nhỏ uốn luợn trong vườn để cùng những người bạn như Tản Đà, Nguyễn Bính, Trần Huyền Trân, Lưu Trọng Lư… ngắm trăng uống rượu rồi làm thơ. Những sinh hoạt của các thi sĩ cùng với kho sách trong nhà với những tác giả như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Mạnh Hạo Nhiên, Verlaine, Lamarrtine, Baudelaire… đã ảnh hưởng rất nhiều đến tâm hồn, sự nghiệp sáng tác của Hoàng Dương sau này. Lúc tản cư lên chiến khu, qua nhóm hát Thái Thanh, Thái Hằng, ông bắt đầu nhập môn âm nhạc, tiếp xúc với các nhạc cụ phương Tây và học guitar từ đó. Thế nhưng, “duyên nợ” violon cell cứ đeo đuổi ông cho đến ngày Thủ đô được giải phóng. Năm 1954, ông bắt tay vào học violon cell và truyền lại cho người con trai đầu của mình niềm đam mê ấy, đó chính là nhạc sĩ Ngô Hoàng Quân, Giám đốc Dàn nhạc giao hưởng Việt Nam. Người con trai thứ của nhạc sĩ, tiến sĩ violon, đang giảng dạy tại Nhạc viện Quốc gia Hà Nội.
Hoàng Dương tâm sự, vào những năm (1953 – 1954), khi ông đang hoạt động cách mạng tại đội tuyên truyền văn nghệ Thành bộ Hà Nội, chiến tranh nổ ra hết sức quyết liệt, đội của ông phải thường xuyên chạy trốn trước sự truy đuổi của quân thù. Lúc bấy giờ, Hoàng Dương có yêu một người em gái ở nội thành, tình yêu thời chiến chinh lãng mạn và đẹp vô cùng. Một đêm khuya, khi đang túc trực tại nhà của một người dân ở ngoại thành, trong tiếng pháo dội về thành phố, anh bồi hồi nhớ đến người yêu. Không nén được cảm xúc, ông liền ngồi vào bàn, viết lên những dòng nhạc đầu tiên cho bài hát “Hướng về Hà Nội”.
Cảm xúc đến tự nhiên, dạt dào khiến Hoàng Dương viết rất rất nhanh và hoàn tất ca khúc ngay trong đêm hôm đó:
“Hà Nội ơi, hướng về thành phố xa xôi Ánh đèn giăng mắc muôn nơi, áo màu tung gió chơi vơi Hà Nội ơi, phố phường dài ánh trăng mơ Liễu mềm nhủ gió gây thơ, thấu chăng lòng khách bơ vơ…”
Ca khúc đã vượt qua ranh giới cảm xúc cá nhân và chạm vào nỗi niềm chung của những người đã từng sống ở Hà Nội. Nhà thơ Ý Nhi có lần nói: “Hà Nội của nhạc sĩ Hoàng Dương là một người tình”, là những gì đẹp nhất của tuổi thanh xuân, tuổi cống hiến cho đất nước. “Hướng về Hà Nội” là sự kết tinh tâm trạng của hai lần nhạc sĩ xa Hà Nội. Lần thứ nhất, lúc 14 tuổi (năm 1947), Hoàng Dương cùng với đoàn người nội thành tản cư đến vùng Chợ Đại, Cống Thần. Ngày ấy, hàng đêm nhìn những quầng sáng hắt lên từ Thủ đô, lòng ông lại bồn chồn, nhớ Hà Nội khủng khiếp, mong chờ ngày giải phóng. Lần thứ 2 (1953), Hoàng Dương trở lại hoạt động cách mạng ở nội thành, lúc đó anh yêu một người con gái Hà Nội, địch phát hiện truy đuổi, Hoàng Dương bỏ trốn ra ngoại thành….
Thính giả thời bấy giờ còn nhớ, khi mới ra đời, cùng với “nỗi buồn tiểu tư sản”, ca khúc “Hướng về Hà Nội” không được biểu diễn công khai trong một thời gian dài. Thậm chí, ca sĩ Ngọc Bảo lại hát “Hướng về Hà Nội” trên đài phát thanh để nhắn gửi bạn bè trong Nam nên càng bị… cấm. Rất may, những ca từ mượt mà và giai điệu ngọt ngào ấy vẫn âm ỉ chảy trong lòng những những người con của Hà Nội. Năm 1954, bài hát được phổ biến rộng rãi và nổi tiếng qua giọng hát của Kim Tước. Ca khúc chất chứa trong lòng một nỗi niềm day dứt khôn nguôi, giai điệu mang đầy tính tự sự cùng với ca từ đẹp, giàu chất thơ khiến người nghe nhớ Hà Nội đến nao lòng:
“…Hà Nội ơi, những ngày vui đã ra đi Biết người có nhớ nhung chi Hết rồi giây phút phân ly Hà Nội ơi, dáng huyền tha thướt đê mê, Tóc thề thả gió lê thê Biết đâu ngày ấy anh về…”
“Hướng về Hà Nội” man mác nỗi buồn thời chinh chiến nhưng không hề bi lụy. Điểm nhân văn của bài hát là đem đến niềm tin cho công chúng, tin vào ngày mai chiến thắng, ngày trở lại Thủ đô…. Và đó cũng chính là sự đồng điệu của những chàng trai Hà Nội lãng mạn và hào hoa trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến. Cuộc chiến tranh đầy gian khổ và hy sinh nhưng họ vẫn vẫn thầm mơ về Hà Nội như những gì Quang Dũng đã viết trong bài thơ “Tây Tiến”:
“…Mắt trừng gửi mộng qua biên giới. Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm…”
Một lần, nhà thơ Quang Dũng đến chơi với tài tử Ngọc Bảo. Sau khi được nghe Ngọc Bảo hát bài hát của Hoàng Dương, Quang Dũng đã nhờ Ngọc Bảo nhắn với Hoàng Dương rằng, ông rất muốn nhạc sĩ đến chơi nhà của ông. Mấy ngày sau Hoàng Dương tìm đến, nhà thơ Quang Dũng đã ôm chầm lấy và bảo: “Cảm ơn Dương, mặc dù mới được gặp cậu lần đầu nhưng tâm hồn của chúng ta đã giống nhau. Tớ cảm nhận được rất nhiều sự đồng điệu trong đó”. Cuộc hội ngộ cảm động đó được Hoàng Dương xem như là một kỷ niệm đẹp, sâu sắc nhất trong cuộc đời âm nhạc của ông.
Năm 1954, ca khúc “Hướng về Hà Nội” được Tinh Hoa Miền Nam xuất bản, ngoài bìa có hình vẽ một thiếu nữ chít khăn “mỏ quạ” màu nâu nhạt do hoạ sĩ Duy Liêm trình bày. Bên trong bài hát, phía trên cùng có câu: “Riêng tặng Hoàng Trọng, bạn thân yêu, gửi đây niềm thương nhớ một mùa chia phôi…”. Nhiều người lúc bấy giờ không biết Hoàng Trọng là ai ? Họ hồ nghi, liệu đó có phải là một “bóng hồng” nào khác ? Thật ra, Hoàng Trọng và Hoàng Dương là bạn văn nghệ với nhau, bản nhạc “Nhạc sầu tương tư” nổi tiếng khi xưa của Hoàng Trọng là do Hoàng Dương viết lời. Ông nói: “Hoàng Trọng là người bạn vong niên đáng kính của tôi. Tôi đã cộng tác với anh trong nhiều bài hát với phần ca từ được anh rất thích”. Sau này, Hoàng Trọng đã giới thiệu những ca khúc của Hoàng Dương cho Kim Tước. Hai ca khúc “Tiếc thu” và “Hướng về Hà Nội” của Hoàng Dương đã được nữ danh ca này trình bày lần đầu tiên, được công chúng nồng nhiệt đón nhận qua làn sóng radio Hà Nội.
Kể từ ngày ấy, ca khúc được lan truyền rộng rãi trong và ngoài nước, nhà xuất bản Tinh Hoa ở Huế tái bản nhiều lần mới đáp ứng được sự hâm mộ của độc giả. Những ca sĩ nổi tiếng một thời như Mai Hương, Duy Trác,… đã chinh phục người nghe bằng giai điệu trữ tình của “Hướng về Hà Nội”. Tuy nhiên, để ru hết phần hồn của bản nhạc, chúng ta phải nói đến giọng ca điêu luyện, mê hoặc lòng người của nữ danh ca Lệ Thu sau này. Nhà thơ Ý Nhi, sau khi nghe họ hát, đã cho rằng: “Giọng ca của họ không lôi cuốn tôi ngay lập tức, nhưng rồi một vẻ đẹp thực sự, những giọng ca đó đã chinh phục tôi. Giọng người này, với sự tha thiết trong trẻo, giọng người kia với sự sâu lắng thấm nhuần, cho đến lúc tôi đinh ninh rằng họ là một trong số rất ít các ca sĩ có khả năng trình bày tốt nhất những ca khúc trữ tình nổi tiếng của Việt Nam”.
40 năm sau, những năm cuối cùng của thế kỷ 20, bài hát mới được “minh oan” và đón nhận nhiều sự chia sẻ của khán giả. Năm 1994, trong chương trình “Nữa thế kỷ bài hát Việt Nam” do Hội Nhạc sĩ Việt Nam tổ chức tại Nhà hát Lớn, ca khúc “Hướng về Hà Nội” đã được chọn trong danh mục biểu diễn. Ca sĩ Thu Hà đã giúp nhạc sĩ Hoàng Dương đưa ca khúc trở lại với công chúng, xóa đi lớp bụi thời gian của mấy chục năm về trước. Các nhà phê bình âm nhạc đã không tiếc lời nhận định, “Hướng về Hà Nội” là sự kết tinh tài hoa, lắng đọng trong không gian thời gian và linh thiêng của sông núi:
“…Một ngày, mùa chinh chiến ấy, Chim đã xa bầy, mịt mờ bên trời bay… Một ngày, tả tơi hoa lá, ngóng trông về xa … luyến thương hình bóng qua…”