Sáng nay trời Sài Gòn chợt đổ mưa. Ngồi nhâm nhi ly cafe sáng trong góc một sân trường, nhìn những cánh phượng rơi lả tả, DòngNhạcXưa biết rằng mùa hè đã về. Đây đó, trong các dãy lớp, các cô cậu học trò những lớp cuối cấp, lớp 9 hay lớp 12 (tức đệ tứ và đệ nhất ngày xưa) vẫn còn đang tất bật chuẩn bị cho một kỳ thi đang đến rất gần.
Xin cảm ơn cơn mưa hạ. Cơn mưa đã đưa chúng tôi về với những tháng ngày đã qua với nhiều cảm xúc buồn vui lẫn lộn của hơn 20 năm về trước: chia tay tuổi học trò và chuẩn bị cho một kỳ thi cam go để làm hành trang vào đời. Khi những cuốn lưu bút đã viết xong, chín tháng của một niên học cuối đã khép lại, chúng tôi bỗng chợt nhận ra mình không còn trẻ nữa, đứa nào cũng trở nên chín chắn hơn với bao ước mơ, hoài bão cho một chặng đường dài phía trước.
Trong niềm cảm xúc ấy, DòngNhạcXưa xin giới thiệu bản “Tháng Sáu Mùa Thi” của nhạc sỹ Nguyễn Văn Hiên qua tiếng hát của nam ca sỹ Khắc Dũng. Xin chúc tất cả các bạn trẻ có một kỳ thi tốt đẹp và tiếp nối thế hệ chúng tôi và bao thế hệ tiền bối khác để dấn bước vào đời và xây dựng quê hương Việt Nam mình tươi sáng hơn!
Vào năm 1956, đơn vị tôi đóng quân ở Chiến khu Đồng Tháp Mười, được xem là mặt trận tiền tiêu nóng bỏng vào thời bấy giờ. Khi ấy, tôi mang cấp bực Trung úy, mới 24 tuổi đời, còn bạch diện thư sinh. Tuy hồn vẫn còn xanh nhưng tâm tình đã nung trong lửa chín ở quân trường. Chính tại Đồng Tháp Mười, vùng đất địa linh nhân kiệt, đã gợi hứng cho tôi sáng tác những bản hùng ca như Súng Đàn, Vui Ra Đi, một thuở được hát vang trong Chiến dịch Thoại Ngọc Hầu. Rồi tiếp sau đó là các bản nhạc Phiên Gác Đêm Xuân, Chiều Mưa Biên Giới, Sắc Hoa Màu Nhớ được ra đời cũng tại vùng đất thiêng này. Khi đi vào vùng hỏa tuyến, là chàng trai trẻ độc thân, với một mối tình nho nhỏ thời học sinh mang theo trong ba-lô, tôi bước nhẹ tênh vào cuộc chiến đầu đời.
Ngày đó Đồng Tháp Mười còn là đồng không mông quạnh, lau sậy ngút ngàn, dân cư thưa thớt, sống co cụm trên những gò đất cao giữa vùng đồng lầy nước nổi quanh năm. Người ở hậu phương lúc bấy giờ nhìn về Đồng Tháp Mười như là vùng đất bí hiểm với những huyền thoại Lúa Ma nuôi quân đánh giặc, về Tổng Đốc Binh Kiều, Thiên Hộ Vương thời chống Pháp qua những trận đánh lẫy lừng ở Gãy Cờ Đen, Gò Tháp mà chiến tích được tạc vào bia đá ở Tháp Mười Tầng còn lưu lại đến ngày nay. Mùa xuân năm đó, đơn vị tôi đóng trên Gò Bắc Chiêng, có tên là Mộc Hoá, nằm sát biên giới Việt Nam-Campuchia, sau này là Tỉnh lỵ Kiến Tường. Đơn vị cũa tôi đã có những cuộc giao tranh đẫm máu vào những ngày giáp tết trên những địa danh Ấp Bắc, Kinh 12 và tuyến lửa Thông Bình, Cái Cái, Tân Thành. Dù vậy, mùa xuân vẫn có cánh én bay về trên trận địa và hoa sen Tháp Mười vẫn đua nở trong đầm dù bị quần thảo bởi những trận đánh ác liệt. Cứ mỗi độ xuân về, sông Vàm Cỏ lại mang về từng đàn tôm cá từ biển hồ Tông Lê Sáp, vượt vũ môn theo đám lục bình trôi về vùng Tam Giác Sắt, như nhắc nhở Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Đồng Tháp Mười lập danh sách cho những người được về quê ăn Tết. Vì còn độc thân nên tên tôi được ưu tiên ghi vào Sổ Nhật Ký Hành Quân và ở lại đơn vị trong những ngày Tết. Dù không ai nghĩ có đánh nhau ngày đầu năm nhưng quân lệnh phãi được tuân hành nghiêm chỉnh. Trước ba ngày Tết, tôi được lệnh lên chốt tiền tiêu, tăng cường cho cứ điểm, mang theo chiếc ba-lô với chút hành trang lương khô, cùng tấm ảnh cũa người em gái hậu phương, cũng là cơ duyên sau đó để tôi viết nên bài tình ca Sắc Hoa Màu Nhớ.
Tiếp nối chủ đề về một thời áo trắng, xin mạn phép đăng lại bài viết của nhà báo Lê Văn Nghĩa để qua đó thế hệ trẻ có thể hình dung phần nào về một thời cắp sách trước 1975.
Thoạt đầu, tôi định đặt tựa bài này là “Thiên đàng mơ mộng”, vì thấy thật đúng tâm trạng của những thằng học sinh Petrus Ký chúng tôi thời đó. Thời chúng tôi có rất nhiều thiên đàng mơ mộng: “Em theo trường về… áo dài tà áo vờn bay” (1).
1. “Thiên đàng” của những thằng tóc hớt ngắn, quần xanh áo trắng là nơi các nữ thiên thần áo dài trắng túa ra như lũ chim bồ câu sau giờ tan học của Trường Gia Long. Thằng học sinh Petrus Ký nào chẳng mơ được “mần quen” cùng một em áo dài.
Phía bên hông cổng Trường Gia Long, trước cổng chùa Xá Lợi, “cạnh tranh” với những chiếc xe bán bò bía, gỏi đu đủ là những chàng áo trắng Petrus Ký đang gửi hồn qua cánh cổng thâm nghiêm có từ năm 1915 với cái tên thơ mộng “Trường nữ sinh Áo Tím”.
Nghe kể lại, trường được thành lập do đề nghị của nghị viên Hội đồng quản hạt Nam kỳ Lê Văn Trung cùng vợ của tổng đốc Phương và một số trí thức người Việt. Khóa đầu tiên (1915) trường tuyển 45 nữ sinh với đồng phục là áo dài tím. Những đời hiệu trưởng đầu toàn là người Pháp.
Năm 1949, nữ sinh Trường Áo Tím cùng nam sinh Trường Petrus Ký tổ chức bãi khóa kỷ niệm ngày Nam kỳ khởi nghĩa nên chính quyền đã đóng cửa trường. Năm 1950, sau một cuộc đấu tranh, biểu tình dài ngày với sự ủng hộ của phong trào học sinh lúc ấy, trường được mở cửa lại.
Đánh dấu sự kiện quan trọng này, sau bảy đời hiệu trưởng trường là người Pháp, lần đầu tiên trường có nữ hiệu trưởng là người Việt: bà Nguyễn Thị Châu. Năm 1953, Trường Áo Tím đổi tên thành Trường nữ trung học Gia Long. Áo dài tím được thay bằng áo dài trắng với phù hiệu là bông mai vàng. Chương trình giáo dục bằng tiếng Pháp được chuyển sang quốc ngữ.
Biết đâu chính “mối tình” gắn kết tranh đấu của Áo Tím và sau đó Gia Long trong những năm về sau đã gắn kết “trai Petrus Ký, gái Gia Long” trong những mối tình thật và ảo của lứa tuổi học trò. Hãy mơ đi những chàng trai Petrus về “thiên đường” tuổi nhỏ dại của mình!
2. Khoảng giữa thập niên 1970, bài hát Con đường tình ta đi của nhạc sĩ Phạm Duy làm xáo động những trái tim mới lớn với những lời ca mộng mị: “…Lá đổ để đưa đường/Hỡi người tình Trưng Vương”.
Tôi không biết đó là lời cảm thán của chàng trai nào. Nhưng có lẽ thích hợp hơn xin hãy cho chàng trai ấy là người của Trường Chu Văn An. Như một mặc định, “trai Petrus Ký, gái Gia Long” thì nữ sinh Trường Trưng Vương lại là “của riêng” của những học sinh Chu Văn An mặc dầu hai trường cách trở về mặt địa lý một quãng đường khá dài.
Trường chàng thì ở tận nhà thờ ngã sáu, đường Minh Mạng, còn “thiên đường” của nàng thì ở đối diện Sở thú – Thảo cầm viên, số 3 Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tội nghiệp cho nam sinh Trường Võ Trường Toản cùng ăn chung xe gỏi bò với các nàng nhưng chỉ đứng xa ngắm những chàng trường Chu đón nàng mà hát câu cảm thán: “Trưng Vương hôm nay mưa vẫn giăng đầy trời/ Bóng người thì mịt mùng/ Từng hàng me rung rung” (2).
Có lẽ “nhân duyên tiền định” của hai trường này đều xuất phát từ “người phương Bắc”. Học sinh Chu Văn An đa số là người miền Bắc và Trường Trưng Vương cũng vậy. Điều này cũng dễ hiểu vì Trường Trưng Vương là ngôi trường có gốc gác từ Hà Nội.
Theo “gia phả”, trường được thành lập từ năm 1925, trên con đường Đồng Khánh, phía nam hồ Gươm mang tên Trường Nữ trung học (College de Jeunes Filles), ngôi trường nữ trung học đầu tiên và duy nhất của nữ giới miền Bắc. Vì nằm ở đường Đồng Khánh nên còn được gọi là Trường Đồng Khánh. Đến năm 1948 trường được chuyển đến đường Hai Bà Trưng (Hà Nội) và đổi tên là Trường Trưng Vương. Năm 1954, một số giáo sư và học sinh di cư vào Sài Gòn và thành lập lại Trường Trưng Vương.
Năm học đầu tiên phải học nhờ cơ sở của Trường nữ trung học Gia Long. Mãi cho đến năm 1957, Trường Trưng Vương dời về số 3 Nguyễn Bỉnh Khiêm (nguyên trước đó là Quân y viện Coste của quân đội Pháp).
Bởi vậy ta không lấy làm lạ khi đây là một trong những ngôi trường mang đậm dấu ấn kiến trúc Pháp và được bình chọn là ngôi trường có kiến trúc đẹp nhất Sài Gòn. Nhờ là học sinh Trưng Vương nên mỗi lần làm lễ kỷ niệm Hai Bà, nữ sinh Trưng Vương được ưu tiên tuyển chọn làm Trưng Trắc, Trưng Nhị cưỡi voi trong lễ diễu hành.
Có lần đi xem lễ diễu hành trên đường Thống Nhất (nay là đường Lê Duẩn), khi hai nàng học trò Trưng Vương ngồi trên voi “phất ngọn cờ vàng” đi ngang, tôi thấy thằng bạn có vẻ phấn khích. Tôi hỏi: “Mầy thích “ghệ” áo vàng hả?”. Nó trả lời buồn xo: “Không, tao thích con voi. Bây giờ tao ước gì mình được làm con voi”.
Rồi nó cảm thán nhại theo thơ của Nguyễn Công Trứ: “Kiếp sau xin chớ làm người/ làm voi nàng cưỡi, cái vòi đung đưa”. Sau này tôi mới biết cô gái đóng vai Trưng Trắc – áo vàng đó đã cho chàng leo cây, “Trưng Vương vắng xa anh dần. Mùa thu đã qua một lần. Còn đây bâng khuâng”. Ôi, tội nghiệp một thời mê gái!
3. “Áo dài trắng em mang mà anh nhớ…” đâu chỉ ở Sài Gòn. Ở một vùng trời tỉnh Gia Định, những chiếc tà áo của nữ sinh Trường nữ trung học Lê Văn Duyệt vờn bay thật nhẹ nhàng, thanh khiết. Tôi khoái chữ “vờn bay” của nhà thơ Phạm Thiên Thư hơn chữ “tung bay” của nhạc sĩ Từ Huy khi nói về chiếc áo dài của nữ sinh trung học. Chữ “tung” có vẻ gì đó mạnh bạo quá khi nói về chiếc áo dài vốn dĩ đằm thắm.
Thật thiệt thòi khi ngôi trường này không được nhắc đến trong âm nhạc hoặc thơ ca, có lẽ những chàng thi sĩ, nhạc sĩ chỉ thích tụ tập ở Sài Gòn mà bỏ quên một ngôi trường nữ làm đẹp và trắng khung trời Gia Định.
Từ Sài Gòn, xuôi theo đường ĐinhTiên Hoàng, quẹo tay mặt, qua cầu Bông một đoạn, nhìn sang tay trái là một ngôi trường kiến trúc kiểu hiện đại hơn trường Gia Long và Trưng Vương. Chuyện cũng dễ hiểu vì năm 1960, tòa tỉnh trưởng Gia Định đã dùng một khu đất trước kia là ao rau muống để xây dựng trường trên đường Lê Văn, gần Lăng Ông thuộc xã Bình Hòa (tỉnh Gia Định). Trước kia trường mang tên Trương Tấn Bửu, thành lập năm 1957, có hai lớp đệ thất một nam và một nữ, học nhờ tại trường nam tỉnh lỵ (nay là Trường THCS Lê Văn Tám).
Năm 1959, lớp nam sinh chuyển về Trường Hồ Ngọc Cẩn (nay là Trường Nguyễn Đình Chiểu). Khi xây dựng xong, trường được đặt tên là Trường nữ trung học Lê Văn Duyệt và chương trình học bắt đầu từ lớp đệ thất đến lớp đệ nhị. Học sinh nào đậu tú tài I sẽ chuyển sang học Trường Trưng Vương. Khoảng năm 1965-1966 trường mới có lớp đệ nhất. So với hai trường nữ đàn chị thì nữ sinh Lê Văn Duyệt nào có kém cạnh chi, cũng làm những chàng trai thốt lên: “Ơi em, bắt hồn tôi về đâu?”…
Có những chàng trai lãng mạn thì cũng có những chàng trai rất thực tế. Hiệp mập, thằng bạn của tôi, phát biểu: “Tao không lấy vợ là “ghệ” Gia Long, yểu điệu thục nữ quá cỡ, tao chỉ muốn vợ tao là nữ sinh Trường Sương Nguyệt Anh”. Tôi sửng sốt vì Trường nữ trung học tổng hợp Sương Nguyệt Anh mới vừa thành lập năm 1971.
Sau Mậu Thân 1968, một góc đường Minh Mạng, Sư Vạn Hạnh gần chùa Ấn Quang bị cháy rụi. Vài năm sau đó, chung cư Minh Mạng ra đời, phía bắc của chung cư, ngay góc đường Hòa Hảo, Minh Mạng (nay là đường Nguyễn Chí Thanh), Trường nữ trung học tổng hợp Sương Nguyệt Anh cùng được xây dựng.
Không phải thằng Hiệp mập không có lý của nó, vì nữ sinh trường này được học một chương trình giáo dục hoàn toàn mới. Đây là ngôi trường nữ đầu tiên tại VN với lối giáo dục theo phương pháp tổng hợp theo mô hình của các nước tiên tiến thời ấy. Song song với việc giảng dạy như các trường công lập khác, trường còn dạy thêm kinh tế gia đình (tức nữ công gia chánh, may vá nấu ăn), môn doanh thương (tức kế toán đánh máy), âm nhạc (đàn tranh, piano), hội họa, nghệ thuật cắm hoa, và cả môn võ aikido, vovinam.
Ngay từ năm lớp 6, nữ sinh Trường Sương Nguyệt Anh đã được học cả hai sinh ngữ Anh và Pháp khi mà học sinh công lập các trường khác chỉ được học một sinh ngữ. Trường được trang bị một phòng thính thị máy móc rất tối tân để luyện giọng chính xác với giáo sư ngoại quốc, một phòng thí nghiệm đầy đủ dụng cụ.
Với lối giáo dục mới mẻ này, sau bảy năm trung học, nữ sinh trường có cơ hội thành một thiếu nữ VN văn võ song toàn. Còn theo thằng bạn tôi, giúp ích xã hội được hay không thì chưa biết, nhưng chắc chắn là một bà xã biết dạy chồng bằng võ vovinam và tài nội trợ.
Sài Gòn, cùng với những trường nữ trung học công lập Gia Long, Trưng Vương, Lê Văn Duyệt, Sương Nguyệt Anh cũng còn trắng trời áo dài với những trường nữ trung học tư khác như Thánh Linh, Hồng Đức… đã nhốt hồn những chàng trai mặt bắt đầu nổi mụn trứng cá và vỡ giọng với những thổn thức “áo ai trắng quá nhìn không ra”…
Những cô nữ sinh với những ngôi trường ấy đã là một phần hồn của chúng tôi, một phần hồn của Sài Gòn đã đào tạo những nữ lưu anh kiệt về các mặt chính trị, văn hóa, khoa học, và tiếp tục những nữ lưu anh kiệt lại là những anh kiệt nữ lưu khác.
Cảm ơn Sài Gòn đã có những ngôi trường ấy cho tôi nhớ. Cảm ơn Sài Gòn có những ngôi trường thiên đàng tuổi nhỏ dành riêng cho chàng trai mơ về những mái tóc, những chiếc áo dài trắng vờn bay… vờn bay!
(1): Ngày xưa Hoàng Thị – thơ Phạm Thiên Thư, nhạc Phạm Duy. Ngày ấy, trên toàn miền Nam, đồng phục cho nữ học sinh là áo dài trắng, quần trắng (hoặc đen), nam học sinh là quần xanh, áo trắng và đeo phù hiệu mang tên trường trên áo. Không có đồng phục cho riêng từng trường như bây giờ. Lúc ấy chỉ có Trường trung học công lập Mạc Đĩnh Chi nam sinh và nữ sinh học chung.
(2): Trưng Vương khung cửa mùa thu – nhạc và lời Nam Lộc.
(*): Trường Gia Long nay là Trường THPT Nguyễn Thị Minh Khai. Trường Petrus Trương Vĩnh Ký nay là Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong. Trường Lê Văn Duyệt nay là Trường THPT Võ Thị Sáu. Trường Sương Nguyệt Anh nay là Trường THPT Sương Nguyệt Anh.
Trong hoài niệm của DòngNhạcXưa, những ngày cuối tháng năm là thời khắc vui nhất và cũng là buồn nhất trong cả một niên học. Vui vì vừa hoàn tất các bài thi của học kỳ 2 và buồn là vì sắp phải chia tay các bạn trong 3 tháng hè. Ngày đó, chúng tôi còn nhớ các cô cậu học trò, dù khô khan hay lãng mạn, dù chuyên tự nhiên hay xã hội, đều cố làm cho mình một cuốn lưu bút và đưa cho các bạn chuyền tay nhau ghi vào những dòng hoài niệm.
Người giỏi văn thì viết những lời bay bổng, ai có hoa tay thì để lại những nét vẽ lã lướt, còn ai không có năng khiếu gì thì chỉ cần dán một tấm hình mà mình ưng ý nhất và ký tên. Thế thôi! Theo thời gian, những cuốn lưu bút này sẽ là hành trang quý báu cho các thế hệ học sinh làm hành trang vào đời.
Ngày nay, với sự phát triển vượt bậc của công nghệ, không biết tuổi học trò có còn viết lưu bút như thế hệ của chúng tôi ngày xưa?
Nhân dịp này, DòngNhạcXưa xin giới thiệu bản “Lưu bút ngày xanh” của nhạc sỹ Thanh Sơn và vài hình ảnh về những trang lưu bút cũ mà chúng tôi sưu tầm được trên internet. Xin chủ nhân ở nơi xa nào đó vui lòng cho phép chúng tôi đăng lại để thế hệ sau nhớ về một thời “lưu bút ngày xanh”!
Nếu như ‘Nỗi buồn hoa phượng’ (Thanh Sơn) là bản nhạc nổi tiếng nhất về tuổi hoa niên viết trước 1975 thì có thể nói ‘Phượng hồng’ (một sáng tác của nhạc sỹ Vũ Hoàng, phổ từ thơ Đỗ Trung Quân) là bài hát sáng tác sau 1975 mà không một ai đã qua tuổi học trò không biết đến. Nhân dịp mùa hè về, DòngNhạcXưa trân trọng giới thiệu bản ‘Phượng hồng’ đến quý vị yêu nhạc xa gần.
BÀI THƠ “CHÚT TÌNH ĐẦU” CỦA ĐỖ TRUNG QUÂN (Nguồn: thivien.net)
Những chiếc giỏ xe chở đầy hoa phượng Em chở mùa hè của tôi đi đâu ? Chùm phượng vĩ em cầm là tuổi tôi mười tám Thuở chẳng ai hay thầm lặng – mối tình đầu
Mối tình đầu của tôi có gì ? Chỉ một cơn mưa bay ngoài cửa lớp Là áo người trắng cả giấc ngủ mê Là bài thơ cứ còn hoài trong cặp Giữa giờ chơi mang đến lại…. mang về.
Mối tình đầu của tôi là anh chàng tội nghiệp Mùa hạ leo cổng trường khắc nỗi nhớ vào cây Người con gái mùa sau biết có còn gặp lại Ngày khai trường áo lụa gió thu bay… Mối tình đầu của tôi có gì ? Chỉ một cây đàn nhỏ Rất vu vơ nhờ bài hát nói giùm Ai cũng cũng hiểu – chỉ một người không hiểu Nên có một gã khờ ngọng nghịu mãi… thành câm.
Những chiếc giỏ xe trưa nay chở đầy hoa phượng Em hái mùa hè trên cây Chở kỷ niệm về nhà Em chở mùa hè đi qua còn tôi đứng lại Nhớ ngẩn người tà áo lụa nào xa. (1984)
Bài thơ Chút tình đầu của nhà thơ Đỗ Trung Quân đã được nhạc sĩ Vũ Hoàng phổ nhạc và trở thành bức thư tỏ tình của nhiều chàng nam sinh bao thế hệ. Ca khúc Phượng hồng cũng khiến hình ảnh hoa phượng trở nên gắn liền với những mối tình tuổi học trò.
Lời ca là những day dứt, luyến tiếc vì mối tình đầu thầm kín của chàng trai- mối tính tuổi học trò gắn liền với hình ảnh phượng hồng rực cháy. Màu hoa đỏ thắm như máu trong tim, như khát khao của tuổi trẻ: Những chiếc giỏ xe chở đầy hoa phượng, Em chở mùa hè của tôi đi đâu ? Chùm phượng vĩ em cầm là tuổi tôi 18, Thuở chẳng ai hay thầm lặng mối tình đầu.
Mỗi năm, khi vào hạ, phượng vẫn lặng lẽ và bừng thắp nỗi nhớ học trò. Lại cũng đều đặn mỗi năm có biết bao mối tình đầu lặng thầm của tuổi học trò đã đi qua bên những cánh phượng hồng đầy lưu luyến. Rời xa ghế nhà trường với biết bao những niềm luyến tiếc chưa thực hiện được càng khiến mỗi người thêm bâng khuâng khi nhìn những hàng phượng vĩ nở rộ.
Mối tình đầu của tôi Là cơn mưa giăng giăng ngoài cửa lớp, Tà áo ai bay trắng cả giấc mơ Là bài thơ còn hoài trong vở, Giữa giờ chơi mang đến lại mang về.
Ai đã đi qua tuổi học trò đầy mộng mơ, sôi nổi hẳn sẽ dưng dưng trong lòng khi được trở về kí ức với Phượng hồng. Những hình ảnh thật trong sáng, đẹp đẽ về mối tình đầu câm nín của chàng trai 18 tuổi. Đâu rồi những cơn mưa giăng ngoài cửa lớp, tà áo trắng ai bay trắng cả giấc mơ và bài thơ tỏ tình nằm im trong vở… Những cảm xúc rung động đầu đời bao giờ cũng là kỉ niệm đẹp nhất của mỗi con người. Chính vì thế, tình yêu tuổi học trò sẽ mãi không phai mờ trong kí ức của chúng ta. Cái cảm giác chia xa thầy cô, bạn bè và bóng hình người thương mỗi khi hè về sao mà day dứt:
Cánh phượng hồng ngẩn ngơ, Mùa hè đến trường khắc nỗi nhớ trên cây, Và mùa sau biết có còn gặp lại, Ngày khai trường áo lụa gió thu bay.
Cánh phượng hồng ngẩn ngơ hay lòng người đang rối bời nỗi tiếc nuối, chia xa để rồi dẫu có nghỉ hè thì cũng lén đến trường khắc nỗi nhớ lên cây. Trường vẫn còn đây mà người thương đang ở nơi đâu? Mùa khai giảng mới liệu có còn gặp lại tà áo lụa vẫn bay trong gió thu ngày nào? Những hoài niệm, tự sự cứ mãi khắc khoải chìm trong nỗi nhớ:
Mối tình đầu của tôi Nhờ cây đàn buông tiếng xa xôi, Ai cũng hiểu chỉ một người không hiểu, Nên có một gã khờ ngọng nghịu đứng làm thơ.
Ở cái tuổi còn vụng về, thơ ngây, bài thơ tình giấu trong cặp sách, nỗi nhớ được khắc lên cây thì hình ảnh các chàng nam sinh ôm cây đàn ghi ta gửi tiếng lòng mình vào lời ca, tiếng hát cũng đã trở thành kinh điển trong thơ ca. Nhất quỷ nhì ma thứ ba học trò, những chàng trai 17-18 bẻ gãy sừng trâu với bao trò đùa nghịch ngợm, quậy phá, vậy mà đứng trước bạn gái lại ấp úng chẳng nói nên lời. Mối tình đầu nhờ cây đàn buông tiếng xa xôi để có người không hiểu:
Em chở mùa hè đi qua còn tôi đứng lại Nắng ngập đường một vạt tóc nào xa
Nàng thiếu nữ dịu dàng trong tà áo dài trắng với chiếc giỏ xe chở đầy hoa phượng như chở mùa hè đi qua và đi rất xa. Bóng nắng ngập đường cũng như vô tình đồng lõa, xóa nhòa đi bóng dáng thân thương.
Ca từ trong sáng, ý nghĩa cùng những giai điệu đẹp đẽ và rất dễ nghe, dễ nhớ đã giúp Phượng hồng ghi điểm trong lòng khán giả. Tuy Phượng hồng không hề dễ hát, nhưng lúc nào ca khúc này cũng là lựa chọn của rất nhiều ca sĩ. Nếu qua tiếng hát của Tấn Minh, Bằng Kiều, bạn có thể cảm nhận những cung bậc da diết, nồng nàn hoàn toàn khác nhau thì với Đàm Vĩnh Hưng, nhiều người lại tìm thấy một chút mạnh mẽ, cá tính. Từ những giọng ca như Đan Trường, Quang Linh tới những ca sĩ hải ngoại như Elvis Phương, Thanh Tuyền và trẻ trung hơn là Dương Triệu Vũ… đều hơn một lần thử giọng cùng ca khúc Phượng hồng.
Trong dòng nhạc xưa về tuổi học trò, ca khúc để lại ấn tượng sâu đậm nhất có lẽ là bản “Nỗi buồn hoa phượng” của nhạc sỹ Thanh Sơn & Lê Dinh. Với giai điệu mượt mà và ca từ lãng mạn, “Nỗi buồn hoa phượng” đã làm lay động hàng triệu con tim tuổi hoa niên qua nhiều thế hệ. Hôm nay , nhân dịp một mùa hè sắp về, DòngNhạcXưa trân trọng giới thiệu nhạc phẩm bất hủ này.
Cũng xin mạn phép nói thêm, hầu hết chúng ta biết tác giả của bài nhạc này là nhạc sỹ Thanh Sơn. Tuy nhiên trong tờ nhạc xuất bản trước năm 1975, nhạc sỹ Thanh Sơn lại ghi thêm tên nhạc sỹ Lê Dinh vào phần tác giả. Chúng tôi không có đủ tư liệu để biết được nhạc sỹ Lê Dinh đã đóng góp như thế nào vào “nỗi buồn man mác” . Mong quý vị xa gần có cao kiến xin cung cấp thông tin cho DòngNhạcXưa
“Mỗi năm đến hè lòng man mác buồn. Chín mươi ngày qua chứa chan tình thương. Ngày mai xa cách hai đứa hai nơi, phút gần gũi nhau mất rồi, tạ từ là hết người ơi…”, những ca từ này đã trở nên quen thuộc với rất nhiều người.
Vâng, quen lắm! Bởi tiếng hát Thanh Tuyền đã song hành cùng với ca khúc Nỗi buồn hoa phượng suốt gần nửa thế kỷ. Đây là một trong rất nhiều ca khúc của nhạc sĩ Thanh Sơn viết về đề tài tuổi học trò. Nhạc sĩ đã từng tâm sự với người viết: “Thời niên thiếu, nhà tôi nghèo lại đông con nên tôi phải bỏ học giữa chừng để mưu sinh. Phải bỏ học, tôi tiếc lắm, cho nên quãng đời rất đẹp của tuổi học trò cứ lưu trong ký ức của tôi với những kỷ niệm xao xuyến. Tôi trang trải những kỷ niệm ấy vào ca khúc…”. Thế nên, ai cũng ngỡ rằng Nỗi buồn hoa phượng cũng chỉ là một ca khúc nằm trong mảng đề tài này và chẳng có gì đặc biệt…
Nhạc sĩ nhớ lại: Năm 1951, cậu học trò Lê Văn Thiện (tên thật của nhạc sĩ Thanh Sơn) học trường Trung học Hoàng Diệu (Sóc Trăng) đã “hết sức quan tâm” đến cô bạn cùng lớp. Cô ấy khá nhí nhảnh, dễ thương, có cái tên ngồ ngộ: Nguyễn Thị Hoa Phượng. Vì thế các thầy cô và bạn bè trong trường không bao giờ gọi tên cô “gọn lỏn” bằng một chữ “Phượng”, mà lúc nào cũng là “Hoa Phượng” một cách vừa thân thương vừa trân trọng. Hoa Phượng là con của một gia đình công chức từ Sài Gòn về làm việc tại Sóc Trăng.
Nhạc sĩ Thanh Sơn hồi tưởng: “Hai đứa học chung được hơn một năm (hai niên khóa), tình cảm đang dần trở nên thắm thiết thì bất ngờ mùa hè năm sau Hoa Phượng cho biết gia đình cô đã được điều chuyển về lại Sài Gòn. Trước ngày chia tay, Hoa Phượng có tìm gặp tôi nơi sân trường để nói lời từ biệt. Hai đứa buồn xo, chẳng nói gì nhiều, chỉ lặng nhìn nhau… Khi tôi hỏi xin địa chỉ để sau này liên lạc thì nàng cúi xuống nhặt một cánh phượng trao cho tôi, nói: “Em tên là Hoa Phượng, mỗi năm đến hè nhìn hoa phượng nở thì hãy nhớ đến em…”. Từ đó chúng tôi bặt tin nhau!
Ba năm sau (1955), Lê Văn Thiện phải bỏ học giữa chừng để chen chân vào cuộc mưu sinh. Anh quyết định lên Sài Gòn, trước là tìm kiếm việc làm, sau nữa nhen nhóm cơ hội tìm lại “người xưa”. Phiêu dạt giữa chốn phồn hoa đô hội, với không ít bầm dập, tủi hờn nhưng rồi nhờ tính tình hiền lành, siêng năng, anh thanh niên tên Thiện cũng may mắn lọt vô cánh cổng của một nhà trọc phú, dù chỉ làm gia nhân với mức lương khá hậu hĩnh so với thời giá lúc đó: 150 đồng/tháng. Mê nhạc, lại được lòng ông chủ cho nên anh được phép tranh thủ những giờ rảnh để theo học lớp nhạc của nhạc sĩ Lê Thương.
Dạo ấy, mỗi năm Đài phát thanh Sài Gòn đều có tổ chức cuộc thi “Tuyển lựa ca sĩ”, điều đó đã nhen nhóm vào lòng chàng trai “ở đợ” một khát vọng đổi đời. Năm 1959, Lê Văn Thiện “liều mạng” đăng ký dự thi tuyển lựa ca sĩ với nghệ danh Thanh Sơn qua bài hát “Chiều tàn” của Lam Phương. Đến bây giờ anh vẫn còn nhớ từng thành viên giám khảo, đó là những nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, Võ Đức Thu, Nghiêm Phú Phi. Ngồi ghế chánh chủ khảo là nhạc sĩ Thẩm Oánh. Cái sự “liều mạng” đã được sao hộ mệnh chiếu mạng: thí sinh Thanh Sơn đoạt giải nhất! Phần thưởng là chiếc máy radio và cây đàn guitar. So với phần thưởng của các giải âm nhạc bây giờ thì quá “hẻo”, nhưng chừng đó cũng đủ đưa Thanh Sơn lên tận… núi xanh! Quan trọng hơn, giải thưởng này chính là đòn bẩy đưa anh vào thế giới ca nhạc. Anh từ giã “nghề” gia nhân để đến với “Ông hoàng Tango” (tức nhạc sĩ Hoàng Trọng). Chính xác là giờ đây ca sĩ Thanh Sơn đã được ban nhạc Tiếng Tơ Đồng của nhạc sĩ Hoàng Trọng mời về cộng tác. Không chỉ có thế, giọng hát của anh còn được nhiều nơi chào mời (bây giờ gọi là “chạy sô”)…
Thời gian này Thanh Sơn bắt đầu tập tành sáng tác. Ca khúc đầu tay của anh là bài Tình học sinh (1962), nhưng bài hát này chẳng tạo được chút dư âm. Thế rồi một buổi trưa đi ngang qua một ngôi trường đang mùa phượng nở, những kỷ niệm của thuở học trò có thấp thoáng bóng dáng của Nguyễn Thị Hoa Phượng ùa về… và ca khúc Nỗi buồn hoa phượng ra đời năm 1963. Nhạc sĩ tâm sự: “Tôi tìm thấy cảm xúc bởi sắc màu đỏ thắm của hoa phượng mỗi khi hè về. Bài hát này tôi viết về một cuộc tình học trò rất đẹp. Lời chia tay của cô bạn gái cùng trường đã khiến tôi xao xuyến, bâng khuâng. Màu hoa phượng như những giọt máu đỏ tươi minh chứng một cuộc tình chung thủy… Bài hát lập tức được chấp nhận và mọi người yêu thích, làm động lực cho tôi chuyên tâm vào sáng tác. Có thể nói đó là “thời hoàng kim” của tôi, bởi tiền tác quyền lúc đó tôi nhận khoảng 6.000 đồng mỗi tháng. Nó không chỉ giúp gia đình tôi vượt qua nghèo khó mà sau đó tôi còn mua được nhà, xe, cưới vợ… Nói một cách nào đó, “hoa phượng” là ân nhân của gia đình tôi”.
Khi Nỗi buồn hoa phượng được tiếng hát cao vút của nữ ca sĩ Thanh Tuyền tải lên sóng phát thanh, ngay lập tức nó tạo được hiệu ứng, đi đâu cũng nghe người ta hát… Từ đó, Thanh Sơn bỏ hẳn nghiệp ca hát để chuyên tâm sáng tác. Từ thành công của Nỗi buồn hoa phượng, có “đà” ông sáng tác một loạt ca khúc cũng lấy đề tài từ mảng tình cảm học trò: Ba tháng tạ từ, Lưu bút ngày xanh, Hạ buồn, Thương ca mùa hạ, …