60 Năm Hiệp Định Genève (1954-2014)

60 năm chỉ là một khoảnh khắc trong dòng chảy thời gian, của 4000 năm văn hiến của dân tộc Việt Nam. Thế nhưng đó cũng là một quãng thời gian đủ dài, ít ra là cũng gần trọn một kiếp người. Trong những ngày này, nhìn lại lịch sử của đất nước, trước khi bắt đầu một số bài viết về những bản nhạc liên quan đến biến cố  “1954 – chia cắt hai miền Nam – Bắc” [dongnhacxua.com] xin mạn phép trích dẫn vài thông tin để thế hệ trẻ có cái nhìn rõ nét hơn về một giai đoạn lịch sử của dân tộc.

ĐÔI NÉT VỀ HIỆP ĐỊNH GENÈVE – 1954
(Nguồn: có tham khảo Wikipedia)

Sau khi căn cứ địa Điện Biên Phủ bị thất thủ vào ngày 07/05/1954, Pháp chính thức trở thành kẻ bại trận trong cuộc chiến tại Đông Dương. Hiệp định Genève 1954 là hiệp định được kí kết để khôi phục hòa bình ở Đông Dương. Được kí kết tại Thành Phố Genève của Thụy Sỹ. Hiệp định dẫn đến chấm dứt sự hiện diện của quân đội Pháp trên bán đảo Đông Dương, chính thức chấm dứt chế độ thực dân Pháp tại Đông Dương.

Nguyên ủy, Hội nghị Genève khai mạc ngày 26 tháng 4 năm 1954 để bàn về vấn đề khôi phục hoà bình tại Triều Tiên và Đông Dương. Do vấn đề Triều Tiên không đạt được kết quả nên từ ngày 8 tháng 5 vấn đề Đông Dương được đưa ra thảo luận.

Hội nghị Genève, 1954. Ảnh: wikipedia.com
Hội nghị Genève, 1954. Ảnh: wikipedia.com

Thành phần tham dự:

  • Phái đoàn Anh, do Anthony Eden làm trưởng đoàn.
  • Phái đoàn Hoa Kỳ, do Bedell Smith làm trưởng đoàn.
  • Phái đoàn Liên bang Xô viết, do Viacheslav Molotov làm trưởng đoàn.
  • Phái đoàn Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, do Chu Ân Lai làm trưởng đoàn.
  • Phái đoàn Pháp, do Georges Bidault làm trưởng đoàn.
  • Phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, do Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn.
  • Phái đoàn Quốc gia Việt Nam, do Nguyễn Quốc Định làm trưởng đoàn sau thay thế bởi Nguyễn Trung Vinh rồi Trần Văn Đỗ.
  • Phái đoàn Vương quốc Lào, do Phumi Sananikone làm trưởng đoàn.
  • Phái đoàn Vương quốc Campuchia, do Tep Than, làm trưởng đoàn.
  • Hai phái đoàn Pathet Lào và Khmer Issarak không được chính thức tham gia hội nghị mà chỉ có quan hệ với phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tất cả các nguyện vọng của hai đoàn này được Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trình bày trước hội nghị.

Hai đồng chủ tịch Hội nghị là Liên Xô và Anh.

Hiệp định Genève có nội dung cơ bản như sau:

  • Các nước tham dự hội nghị cam kết tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của 3 nước Việt Nam, Lào, Campuchia, không can thiệp vào công việc nội bộ 3 nước.
  • Các bên tham chiến thực hiện ngừng bắn, lập lại hòa bình trên toàn Đông Dương
  • Các bên tham chiến thực hiện cam kết, chuyển quân, chuyển giao khu vực, trao trả tù binh
  • Dân chúng mỗi bên có quyền di cư sang lãnh thổ do bên kia kiểm soát trong thời gian quân đội hai bên đang tập kết
  • Cấm đưa quân đội, nhân viên quân sự,vũ khí nước ngoài vào Đông Dương. Nước ngòai không được đặt căn cứ quân sự tại Đông Dương
  • Thành lập Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến Đông Dương (tiếng Anh: International Control Commission, ICC; tiếng Pháp: Commission Internationale pour la Surveillance et le Contrôle, CISC) gồm Ấn Độ, Ba Lan và Canada, với Ấn Độ làm chủ tịch.
  • Sông Bến Hải, vĩ tuyến 17, được dùng làm giới tuyến quân sự tạm thời chia Việt Nam làm hai vùng tập kết quân sự tạm thời. Chính quyền và quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tập trung về miền Bắc; Chính quyền và quân đội khối Liên hiệp Pháp tập trung về miền Nam. Khoản a, điều 14 ghi rõ: “Trong khi đợi tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam, bên nào có quân đội của mình tập hợp ở vùng nào theo quy định của Hiệp định này thì bên ấy sẽ phụ trách quản lý hành chính ở vùng ấy.”

Điều 6 Bản Tuyên bố chung ghi rõ: “Đường ranh giới quân sự tạm thời này không thể diễn giải bằng bất cứ cách nào rằng đó là một biên giới phân định về chính trị hay lãnh thổ.”

Hiệp định Genève không có điều khoản nào quy định chi tiết về thời điểm cũng như cách thức tổ chức Tổng tuyển cử thống nhất hai miền Nam-Bắc Việt Nam. Nhưng Bản tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève ghi rõ cuộc Tổng tuyển cử sẽ được tổ chức vào tháng 7/1956.

Lực lượng vũ trang tập kết và dân chúng di cư

Những người di cư bằng thuyền năm 1954 từ miền Bắc. Ảnh: wikipedia.com
Những người di cư bằng thuyền năm 1954 từ miền Bắc. Ảnh: wikipedia.com
  • Quân đội Nhân dân Việt Nam, lực lượng vừa giành được thắng lợi quan trọng tại chiến dịch Điện Biên Phủ, tập kết về miền Bắc.
  • Tuy không ký kết Hiệp định Genève và đã tách ra khỏi Liên hiệp Pháp trước khi Pháp ký Hiệp định Genève nhưng lực lượng Quốc gia Việt Nam vẫn theo quân đội Pháp tập kết về miền Nam. Trên 1 triệu người dân từ miền Bắc được sự trợ giúp cũng như ảnh hưởng tuyên truyền của Mỹ đã di cư vào Nam (trong đó có khoảng 800.000 người Công giáo, chiếm khoảng 2/3 số người Công giáo ở miền Bắc), và 140.000 người từ miền Nam (phần lớn là lực lượng kháng chiến của Việt Minh) tập kết ra Bắc[22].
  • Quân đội Pháp dần dần rút khỏi miền Nam trong 2 năm và trao quyền lực cho chính quyền Quốc gia Việt Nam.

[footer]

Lời tình buồn (Chu Trầm Nguyên Minh – Vũ Thành An)

Trong niềm tiếc thương nhà thơ Chu Trầm Nguyên Minh, tác giả của bài thơ ‘Lời tình buồn’ (sáng tác năm 1967) mà sau đó nhạc sỹ Vũ Thành An đã phổ thành bản nhạc nổi tiếng mãi hơn 40 năm qua. Một lần nữa  [dongnhacxua.com] cầu chúc linh hồn ông mau hưởng niềm vui bất tận nơi miền miên viễn.

LỜI TÌNH BUỒN
(Nguồn: tác giả Trương Văn Dân đăng trên bbqt.com)

Lời ngỏ

Bài này viết vào đầu tháng 1/2014, lúc anh Tâm (CTNM) nhập viện. Lúc đó đã có 2 bản dịch ra tiếng Pháp và tiếng Ý của Elena. Dù rất mệt nhưng anh Tâm cũng cố gắng viết và gửi cho tôi bài viết về nguồn gốc và những liên quan về “lời tình buồn” để làm tư liệu.

Vừa rồi khi đến thăm anh ở bệnh viện Triều An anh Tâm nói còn thiếu bản dịch sang tiếng Anh. Tôi có nhờ HKO nhưng lúc này chị rất bận. Anh nhờ tôi thay anh viết mail nhờ nhà thơ Đặng Lệ Khánh.Mới đầu chị Khánh cũng hơi ngại việc dịch thơ nhưng khi biết tình hình sức khỏe của anh Tâm đang chuyển biến xấu … thì ngay chiều hôm đó tôi nhận được bản dịch qua mail. Mừng quá, tôi copy vào bài viết và gửi cho anh. Nhưng lúc này anh đã phải thở oxy và không mở mail được.

Hôm 18/2/2014 tôi gọi điện thăm anh nhưng mãi đến chiều mới liên lạc được. Chị Tùng Vân cho hay là lúc đó anh đang ngủ. Chị cho biết là lúc sáng chị có mở mail và đọc lại bài viết này cho anh nghe. Anh rất vui và xúc động.. 16h ngày 19/2 thì nghe tin anh đã từ giã bạn bè…

Tôi xin gửi bài viết này như thắp một nén nhang không màu khói để tiễn anh về cõi vô thường. Và tưởng nhớ những ngày chung sống cùng anh và các bạn văn ở nhà bs Thiện tại Paris.

Ảnh: luanhoan.net
Ảnh: luanhoan.net

Gần 50 năm trước bài thơ Lời Tình Buồn của Chu Trầm Nguyên Minh xuất hiện như một lời chia tay trong tâm trạng bấp bênh, mang đầy nuối tiếc của kẻ ra đi mà chẳng biết ngày về… “Anh đi rồi” vang lên như lời than thở của kẻ đang giã từ đời sống bình yên để bước vào cõi đạn bom. Cuộc ra đi đó là dấu chấm hết của đời thư sinh, xếp bút nghiên để cầm lấy súng. Bản tính hiền hòa, CTNM mang súng mà có lẽ chắc chẳng biết phải dùng súng để làm gì. Trong lòng anh chỉ mang nặng những âu lo, trước mắt anh chỉ có một bầu trời đầy sa mù nên lời thơ của anh âm thầm vang lên như một nỗi buồn thân phận. Cá nhân. Nhưng cũng là tập thể, của những trai tráng cùng thời…

Chỉ với câu thơ đầu : “ Anh đi rồi còn ai vuốt tóc”…. Bài thơ đã ngân lên như một khúc nhạc nhẹ nhàng, nhưng cũng đầy day dứt, xót xa khi phải xa cách trong tình yêu.

Chỉ một từ “đi” thôi nhưng sao nó làm nỗi buồn như kéo dài đến vô tận! Từ “đi ” ở đây không hẳn là chuyển động… mà còn là sự chia ly, là kéo dài khoảng cách không gian giữa hai kẻ yêu nhau, sẽ không còn thấy, không còn gặp, không còn được tình tự, âu yếm nhau nữa.

Một cảm giác cô quạnh khi hai người không được sống bên nhau. Sự chia ly làm kẻ ra đi buồn da diết và tình yêu sâu sắc của anh dành cho người ở lại lúc này đang lớn lên như biển như trời. Những câu hỏi kế tiếp chính là nỗi băn khoăn của kẻ ra đi: “đêm xuống rồi em buồn không hỡ?” Trời sa mù tầm tay với âu lo…

Chắc chắn là chỉ trước lúc xa nhau con người mới cảm nhận hết tình yêu thương, sự mất mát và nỗi cô đơn. Ý tưởng không mới, cũng chẳng lạ… thế nhưng người đọc thơ anh cứ nghe lòng buồn da diết – Có lẽ nó giải bày niềm khát khao hạnh phúc và nỗi đớn đau lúc chia ly trong tình yêu bằng cảm xúc rất thật, rồi ngôn ngữ và nhạc điệu đã làm cho cảm xúc thăng hoa? Đọc thơ anh, không khó nhận ra là lời thơ tự nhiên tuôn chảy, hoàn toàn không cường điệu hay cố gắng tạo ra những tiếng kêu thê thiết… mà âm vang vẫn man mác, trầm buồn.

Anh đi rồi còn ai đưa đón…

Nỗi lo lắng đơn giản mà xúc động. Những câu hỏi sau đó còn được anh liên tiếp, phóng bút đưa ra, dồn dập… như sự hốt hoảng này chính là nỗi buồn/nhớ đang giăng ngập hồn mình. Nó chiếm lĩnh trọn tâm hồn kẻ ra đi.

Bởi ra đi trong thời khói lửa chiến tranh là sự ra đi một đi không trở lại.

Quá khứ không quay về… Có còn lại chỉ là những kỉ niệm về ngày xưa. Những hoài niệm làm người đi day dứt… nên “đi rồi” mà như vẫn đứng đó, ngẩng nhìn về phía sau, vì, chỉ một chút nữa thôi là không còn chi nữa. Không còn mái tóc xanh “trùng dương sóng lượn” không còn cả ngôn ngữ để “ nói hết yêu thương”.

Đi, mà lòng vẫn ao ước được ở bên em… ở đâu cũng được, dưới thấp hay trên cao, thậm chí lơ lửng giữa bầu trời như một đóm sao…miễn là được nhìn thấy em, chiêm ngưỡng em… chăm lo cho em mọi thứ. Nhưng đi rồi…thì không gian xa khuất… nên lòng “..chợt buồn đứng ngóng bâng khuâng”

Bâng khuâng. Và lo sợ. Vì ngày mai biết đâu anh sẽ không còn sống, hay sống sót trở về mà một phần xương thịt đã gửi lại núi rừng.

Bài thơ chỉ có vỏn vẹn 112 chữ nhưng chứa đựng bao điều muốn nói. Ngắn, nhưng cô đọng những tâm tình, những âu lo, mất mát, của tuổi thanh xuân chìm sâu hun hút theo dòng lịch sử của một thời chinh chiến.

Bài thơ khi đọc lên, tự nó đã thấy buồn. Rồi qua lời hát nó còn da diết hơn. Thê thiết hơn. Ngôn ngữ trữ tình thanh thoát còn được bay lượn trên làn sóng âm thanh làm lòng người nghe cảm nhận một cảm giác chơi vơi. Đó có phải là ký ức về một thời trai trẻ, về mối tình đầu… mà ai ai trong chúng ta cũng sẽ giữ mãi? Cho dù ngày sau có ra sao đi nữa…có chết đi…thì vẫn hạnh phúc vì đã có được một tình yêu nồng thắm… “Phúc yêu em dấu lần quá khứ ”…Âm thanh du dương cao vút rồi khép lại bằng “ Nụ hôn đầu rụng xuống hư vô” …

Rồi tất cả chìm vào hư không… Còn lại chăng chỉ là một nỗi buồn, tiếc, nhớ… mênh mang…

&

Thơ là một dòng suối mà ngôn ngữ là con thuyền chuyên chở cảm xúc, nhờ thứ ngôn ngữ cô đọng đó nên “cái bên trong” của nhà thơ… lan ra bên ngoài…tưới mát tâm hồn và chạm đến trái tim người đọc. Thế nhưng xưa nay hiếm có những bài thơ mà âm vang dừng lại thật lâu, đọng lại trong tâm người thưởng thức..

Phần lớn những vần thơ đến với chúng ta chỉ trong một thoáng, nó như bức tranh mây đa sắc xuất hiện giữa bầu trời…và hình như chỉ khi nào có một họa sĩ tài hoa bằng nghệ thuật độc đáo của mình, nắm bắt được hình ảnh bất chợt, vẽ lên tranh thì hình tượng ấy mới trở nên cụ thể, hư ảo và sắc màu cùng hiện thì cảm xúc của nhà thơ mới được hình tượng hóa : và người yêu thơ mới có thể cảm nhận hết sự cộng hưởng của giai điệu và lời ca.

Bài thơ Lời Tình Buồn của CTNM nhẹ nhàng và ngôn ngữ tự nó có mang theo âm tiết như một bài ca. Nhưng phải nói thêm là tiếng vang của nó sẽ vụt tắt nếu không bắt gặp bàn tay tài hoa của Vũ Thành An. Chính có sự gặp gỡ này thì ngôn ngữ và âm thanh mới giao thoa và những cung bậc cảm xúc được vang lên bằng một thứ âm thanh len lỏi vào trái tim người nghe, ngân vang và được lưu giữ mãi.

Bài hát đã chắp cánh cho những vần thơ ngọt ngào, da diết … bay cao, lay động lòng người.

Nhiều năm sau nghe lại Khánh Ly (*)…giọng hát có lúc trầm buồn, có khi cao vút, khơi dậy trong lòng người nghe những nỗi nhớ của một thời yêu thương, lòng vấn vương bao kỷ niệm của hương xưa, của thuở chiến chinh, của trời mây non nước… Lời Tình Buồn cuốn hút, mang tâm hồn tôi bay ngược về quá khứ, hất tung những hình ảnh bị che mất dưới lớp bụi mịt mờ của thời gian…

Trương Văn Dân
Sài Gòn 1/2014

Trong cảm xúc ấy, xin ghi lại ở đây bài thơ Lời Tình Buồn của Chu Trầm Nguyên Minh:

LỜI TÌNH BUỒN

Anh đi rồi còn ai vuốt tóc
Lời tình thơm sách vở học trò
Đêm xuống rồi em buồn không hở
Trời xa mù tầm tay với âu lo

Anh đi rồi còn ai đưa đón
Áo em bay khuất mất thiên đường
Tuổi hai mươi vòng tay chờ đợi
Ngôn ngữ nào anh nói hết yêu thương

Anh đi rồi còn ai chiêm ngưỡng
Cổ em cao tay mười ngón thiên thần
Tóc em xanh trùng dương sóng lượn
Anh chợt buồn đứng ngóng bâng khuâng

Anh đi rồi còn ai tình tự
Đêm đầy trời ru tiếng nhớ bơ vơ
Phúc yêu em dấu lần quá khứ
Nụ hôn đầu rụng xuống hư vô.

Chu Trầm Nguyên Minh

…và bản dịch sang tiếng Anh của Đặng Lệ Khánh :

Love Blue

Once I am away, no one will softly touch your hair
Loving words – sweet as school years – no longer murmured to your ears
Night is falling now, are you feeling heartbroken
Misty fog is dripping down filling your arms with worriment

Once I am away, no one will pick you up and see you off
Paradise becomes unreal, so is your fluttering dress
Being twenty something, we are waiting for embraces
No word, nor language can describe my love enough

Once I am away, no one will adore your graceful neck
And your fingers so heavenly delicate
Your long hair flows like soft waves in the ocean
Standing here, in sudden sadness, I am longing for none

Once I am away, there will be no one to share your love
The night sky is filled with songs of remembrance and sorrow
The joy of loving you will soon be flowing into the past
And our first kiss will be falling into emptiness

và hai bản dịch sang tiếng Pháp và tiếng Ý của Elena Pucilo Truong

Les paroles tristes pour un amour
Je suis parti ….Qui te caressera les cheveux ?
Les mots d’amour parfument encore les cahiers
Tu seras triste quand tombera la nuit

Et le ciel brumeux te remplira de souci
Je suis parti…Qui t’accompagnera ?
Vole la bande de l’ao dai , en voilant le paradis
A vingt-ans , les bras sont ouverts en attendant un amour

Par quels mots je pourrais exprimer tout mon sentiment?
Je suis parti….Qui adorera
Ton long cou et tes doigts d’ange
Tes cheveux, fluctuants comme une vague de l’océan?

Et le regard se perd dans la tristesse…avec émotion
Je suis parti….à qui tu t’es confieras ?
Le ciel nocturne murmure la nostalgie mélancolique
La chance de t’avoir aimée , maintenant me fait oublier notre passé

Et le premier baiser sombre déjà dans le rien…

Bản dịch sang tiếng Ý :

Le parole tristi per un amore
Sono partito, chi ti accarezzera’ i capelli ?
Le parole d’amore profumano ancora i quaderni
Sarai triste quando calera’ la notte

E il cielo nebbioso ti riempira’ di preoccupazione.
Sono partito..chi ti accompagnera’?
Il lembo di ao dai vola, velando il paradiso
a vent’anni , le braccia sono aperte in attesa di un amore

Con quali parole potrei esprimere tutto il mio sentimento?
Sono partito… chi adorera’
Il tuo lungo collo e le dieci dita d’angelo
I tuoi capelli, fluttuanti come l’onda dell’oceano?

E lo sguardo si perde nella tristezza…con emozione
Sono partito… con chi ti confiderai ?
Il cielo notturno sussurra la malinconica nostalgia
La fortuna d’averti amato ora mi fa dimenticare il nostro passato

Ed il primo bacio già sprofonda nel nulla…

[footer]

Nhong nhong nhong … Cha làm con ngựa (Thế Hiển)

Tiếp nối chủ đề “Ngựa trong âm nhạc Việt” [dongnhacxua.com] xin giới thiệu tiếp một sáng tác vui và nhiều ý nghĩa của nhạc sỹ Thế Hiển, bản “Nhong nhong nhong”. Hình ảnh người cha làm ngựa để vui đùa với con cái chắn hẳn là một kỷ niệm khó phai đối với tất cả chúng ta, dù ở bất kỳ độ tuổi nào, mỗi khi nhớ về một thời tuổi thơ, để thấy yêu thương các bậc sinh thành nhiều hơn.

CHA LÀM CON NGỰA
(Nguồn: tác giả Thụy Bình đăng trên BaoPhuYen.com.vn)

“Nhông nhông nhông cha làm con ngựa, để cho con, con cưỡi con chơi…” để cho con, cho con thật nhiều, nhiều như lá, như cây, như thác nước đại ngàn, như núi Thái Sơn bao la hùng vĩ…

 cha-lam-con-ngua--baophuyen.com.vn--dongnhacxua.com

Bây giờ con đã lớn khôn nhưng tuổi thơ con mang nặng tình yêu thương của ba còn mãi vẹn nguyên, tình yêu thương của ba dành cho con, tiếp cho con sức mạnh cứ mãi tròn đầy… Thế sao bây giờ ba không còn đủ sức chỉ để tự trở mình, chỉ để hé mắt nhìn đứa con gái thân yêu nơi xa về khi nghe tin “ ba bệnh nặng”?

…Con tròn 5 tuổi, vì nhiều lý do ba phải nghỉ “ hưu non” để mẹ con “đương chức”. Tháng hai lần, mẹ gồng gánh lương thực, thực phẩm thời bao cấp từ cơ quan cách hàng chục cây số về với bốn cha con, cả gia đình có được ngày Chủ nhật sum vầy. Những ngày còn lại trong tuần, bốn cha con “ nhông nhông” với nhau, ngựa con, ngựa bố sớm tối vui vầy. Ba nóng tính như lửa rơm, chóng cháy chóng tàn, trực tính, tầm phào và tốt bụng. Ba gánh vác nắng mưa, gánh vác nỗi niềm cho con trẻ, cho con sức mạnh, cho con niềm tin vững chãi bước đi trong cuộc đời. Con dần lớn khôn, giống mẹ-con yếu mềm, con hay tủi thân, hay khóc, hay mủi lòng… Ba vực con dậy trong nhiều lần vấp ngã, non nớt nào đâu con biết, ba cho con sức mạnh nhưng ba lại quay lưng giấu đi gương mặt méo xệch vìø cảm xúc…

Con nhớ, khi lên lớp 5, ba cho con lên trường huyện theo học lớp bồi dưỡng văn dự thi cấp tỉnh. Con bé nhỏ trên chiếc xe đạp quá khổ tuổi lên mười, với con, ba mạnh mẽ đi kèm sát bên cạnh như một sự che chở khôn cùng… thế mà con vụng về yếu đuối để chiếc xe thồ va quệt suýt té. Không yên lòng, ba cố công dỗ dành để con đồng ý không theo học nữa. Nhưng con tiếc, con buồn, con khóc và thầm giận ba suốt tháng dài… Vẫn cương quyết vô cùng nhưng ba lại thao thức, trăn trở thương con hiếu học! Ngày con dự thi tốt nghiệp cấp II, rồi cấp III, ba bỏ công việc, lo lắng, bồi hồi ngồi chờ con suốt buổi trước cổng trường, nhen thêm cho con ngọn lửa của sức mạnh, của niềm tin cho đến ngày tên con có trên “ bảng vàng”, ánh mắt ba bừng sáng mừng vui… Ngày con vào đại học, ba đưa con ra bến xe, lần đầu tiên con cảm nhận nhiều lắm về cuộc đời vì lần đầu tiên con đi bên cạnh người cha đang khóc, nước mắt ba mềm nhũn lòng con suốt quãng đường đưa tiễn, để 4 năm dài chốn giảng đường và mãi sau này con luôn mang theo hình bóng của ba ngày đó, nhớ về những giọt nước mắt của ba để con có thêm sức mạnh, để con hiểu rằng: buồn vui, hờn giận cũng phải biết nén lòng…

… Con đủ lông, đủ cánh bay đi, con cứng cỏi lên nhiều cũng là lúc con không được cùng ba nữa trong tuổi xế, tuổi chiều…. Ba cho chúng con trong hành trang mang theo cuộc đời mình có sự mạnh mẽ, tính nóng như lửa rơm, chóng cháy chóng tàn, trực tính, tầm phào và tốt bụng, tình yêu thương khôn cùng như  núi Thái Sơn bao la hùng vĩ…

THỤY BÌNH

[footer]

Nguyễn Văn Lộc (Lộc Vàng) và niềm đam mê nhạc vàng nơi đất Bắc

Trong bài viết về nhạc phẩm có số phận long đong ‘Gửi người em gái miền Nam’, [dongnhacxua.com] có nhắc đến anh Nguyễn Văn Lộc, mà bạn bè hay gọi là Lộc ‘vàng’ vì anh là người đã khai trương quán Lộc Vàng, một trong những phòng trà trình diễn nhạc vàng đầu tiên trên đất Bắc. Cũng vì tình yêu nhạc vàng bất tận mà bản thân anh đã vướng vòng lao lý trong một vụ án chấn động miề Bắc ngày đó. 

YÊU NHẠC VÀNG: MÁU VÀ NƯỚC MẮT
(Nguồn: tác giả Nguyễn Tuấn Ngọc đăng trên Facebook)

Với nhiều người Hà Nội, vụ án Phan Thắng Toán và đồng bọn bị xét xử về tội truyền bá văn hóa đồi trụy của chủ nghĩa đế quốc, tuyên truyền phản cách mạng và chống lại các chính sách pháp luật của nhà nước, họ vẫn chưa quên được. Người đàn ông Nguyễn Văn Lộc năm xưa trong vụ án này bây giờ là chủ quán Lộc vàng tại ven đường Hồ Tây.

Anh Lộc châm thuốc cho anh Toán "xổm" trước khi anh Toán mất. ảnh Nguyễn Đình Toán
Anh Lộc châm thuốc cho anh Toán “xổm” trước khi anh Toán mất. ảnh Nguyễn Đình Toán

Hồi đó anh Lộc và những người bạn vì quá mê nhạc tiền chiến nên đã thành lập nhóm nhạc để tụ tập hát nhạc của Văn Cao, Đoàn Chuẩn – từ Linh, Đặng Thế Phong…và các nhạc sỹ miền Nam như Ngô thụy Miên, từ Công Phụng…Ngày 27/3/1968, nhóm nhạc anh bị bắt và tạm giam ở Hỏa lò 3 năm. Vào các ngày 6,7,8 tháng 1 năm 1971 Tòa án nhân dân Hà Nội mở phiên toàn xét xử gồm 7 thành viên. Tòa tuyên án Toán “xổm” 15 năm tù, Nguyễn Văn Đắc 12 năm tù, anh Lộc 10 năm tù… Sau khi hiệp định Paris được ký kết, anh Lộc được giảm án xuống còn 8 năm tù . Năm 1976 anh ra tù.

Báo Hà Nội ngày 12/1/1971 đưa tin Phan Thắng Toán và đồng bọn bị xét xử. Ảnh: Facebook của Nguyễn Tuấn Ngọc
Báo Hà Nội ngày 12/1/1971 đưa tin Phan Thắng Toán và đồng bọn bị xét xử. Ảnh: Facebook của Nguyễn Tuấn Ngọc

Anh thương nhất là anh Toán “xổm” ra tù, mất hết tất cả, không nơi nương tựa, sống nhờ cậy bàn bè và sau đó anh nằm chết ở vệ đường vào năm 1994.

Anh Lộc tại quán Lộc vàng. Ảnh: Facebook của Nguyễn Tuấn Lộc.
Anh Lộc tại quán Lộc vàng. Ảnh: Facebook của Nguyễn Tuấn Ngọc.

Tôi chưa nghe người nào hát nhạc phẩm: gửi người em gái của Đoàn chuẩn- từ linh hay bằng anh. Một giọng hát quá trữ tình và sâu lắng. Anh đã hát đúng bản gốc của tác phẩm này, vì anh cho biết nhạc phẩm đang được thu âm và hát lại bây giờ đã bị thay lời quá nhiều, nhất cả khi các ca sỹ hải ngoại hát.

Hàng ngày, người đàn ông này vẫn hát lại những ca khúc củ của một dòng nhạc đã đi qua bầu trời văn nghệ Việt Nam với biết bao trầm luận. Nó cũng giống như số phận của anh Lộc khi trót mang kiếp cầm ca.

[footer]

Giàn mướp quê

Sáng nay, trong giây phút thư thả cafe sáng thứ bảy, [dongnhacxua.com] chúng tôi bất chợt gặp lại hình ảnh giàn mướp quê nhà qua tạp văn của tác giả Nguyễn Hiệp đăng trên Tuổi Trẻ Cuối Tuần. Hình ảnh người mẹ quê tần tảo lại hiện ra thấp thoáng bên giàn mướp sau vườn. Ngày đó, thập niên 1980, bản ‘Một sáng con về’ (nhạc sỹ Miên Đức Thắng phổ thơ Tường Linh) do Bảo Yến hát rất nổi tiếng, trong đó chúng tôi nhớ vài câu:

… Mẹ già ta đó 
Hái mướp bên rào
Nắng mưa đã nhiều
Tóc chiều đã xuống …

Thời gian mới đó mà đã hơn 30 năm. Giờ đây giàn mướp ở quê không còn nữa, mẹ cũng không còn khỏe để hái mướp như ngày nào. Thế nhưng mỗi chiều mẹ vẫn ra khu vườn cũ, lặng yên nhìn về một phương xa để mong những đứa con tha phương như chúng tôi một lần quay về ngồi bên mẹ bên giàn mướp như ngày xưa.

 

GIÀN MƯỚP CỦA MÁ
(Nguồn: tác giả Nguyễn Hiệp đăng trên Tuổi Trẻ Cuối Tuần)

TTCT – … “Từ độ người đi biết trưa quê
Thương giàn mướp nhỏ hoa chưa về
Vàng hoa trưa ấy còn bay phấn
Thơm đến trưa này trưa mướp quê”.

(Trưa quê – Sao Mai)

Thời thơ ấu của tôi quanh quẩn với lẫm lúa, gốc chùm ruột và giàn mướp trước sân nhà. Tôi còn nhớ mồn một những ô tre với rất nhiều bông mướp vàng ươm lấm tấm phấn lấp ló như là có sự sắp xếp tài tình. Từng chiếc lá giông giống bàn tay cứng cáp, từng cái ngọn cong cong vươn ra sởn sơ mềm mại, từng xoắn móc neo giữ cẩn trọng… được thiên nhiên tạo bằng tất cả sự tinh xảo, âu yếm.

Và cái “tuyệt tác” giàn mướp ấy không thể thiếu những chú ong bầu tròn tròn đen đen như hòn bi ve biết bay. Tôi mê mẩn tiếng ong bầu trong ống tre, loại nhạc kỳ diệu của thời tuổi nhỏ.

Khi đã nhiều tuổi, để nhớ về má, tôi tạo lại giàn, dây mướp đã phủ đều bốn góc nhưng loay hoay mãi tôi vẫn chưa tìm được tre, lại chỉ đan bằng những cọng kẽm lớn, nhìn có vẻ chắp vá, thiếu đi cái hồn vía “thương giàn mướp nhỏ hoa chưa về”. Dù là gì tôi vẫn xem đó là “giàn mướp của má tôi”, tôi thường ngồi hàng giờ với nó, cố giữ gìn, vun vén những rung động của chính mình và của tâm hồn thế giới xung quanh.

Cảm giác vậy nên mỗi lần ngồi dưới bóng râm mát của những bông vàng lấp ló ấy, tôi như thấy mình đang sống lại cái thuở thần tiên của đời người và hình như đâu đây thôi, má tôi đang bận rộn liền tay liền chân, năm tao bảy tiết chống chọi với gió mưa cuộc đời. Giàn mướp cảm giác, “giàn mướp của má tôi”, đã nhiều lần tôi gọi tên nó như vậy.

Giàn mướp sau nhà. Ảnh: soloha.vn
Giàn mướp sau nhà. Ảnh: soloha.vn

Bông mướp rụng nhiều là điềm chẳng lành. Bông mướp dày nhưng không đậu trái cũng không là điềm tốt đẹp. Cái búp như chiếc bông tai của người con gái mới được nhà trai đến dạm ngõ. Đôi bông ấy không đính hai hạt cẩm thạch lạnh lùng rào giậu mà nó mang, nó gợi cái tính, cái hồn của người con gái: vừa mơn mởn căng tràn sức sống lại vừa khuôn phép, rụt rè, vừa khao khát hiến dâng lại vừa e lệ, khép nép.

Mỏng mảnh yếu đuối vậy mà bông mướp đã trở thành hình ảnh khó phai, là chút gì đó hiền hòa, vương vấn, mến yêu không thể thiếu trước hiên nhà, sân nhà của miệt quê yên tĩnh. Hồi nhỏ, bọn trẻ xóm tôi thường ngắt ruột cọng mì từng đoạn, giữ lớp vỏ ngoài lại để tạo thành sợi dây chuyền, thắt lá dừa thành nhẫn, thành đồng hồ và bông mướp làm đôi bông tai, rồi len lén đeo tặng cho nhau, rụt rè nhìn trước ngó sau dúi vào tay nhau rồi ù chạy mà nhịp tim như nhịp trống.

Ôi! Những ngây thơ, ngây ngô, “ngố rừng” nhưng không kém phần da diết của một thời vụng dại. Dưới giàn mướp râm mát ấy, trò chơi đám cưới của những đứa bé quê chúng tôi đã thành những ký ức lung linh, quý giá hơn của cải vàng bạc châu báu. Chúng tôi mang theo như một phần hành trang trong suốt đời mình.

Nơi chân núi Tà Cú, tôi thường có khách văn ghé thăm. Dưới giàn mướp ấy, tôi để bộ bàn ghế đá uống trà, không hiểu sao câu chuyện của chúng tôi cứ thường quay về đề tài cảm giác. Chúng tôi đang ngồi uống trà, chợt tất cả ngoái nhìn ra vườn: bầu trời phủ đầy những chấm đen di động, thì ra đó là bầy ong mật đang chia đàn chuyển tổ.

Khi bầy ong tụ hết lại thành khối nơi góc giàn mướp, một nhà văn bạn đã nói: bầu trời giờ như chiếc tủ kính trong veo. Mọi người ồ lên xác nhận cái cảm giác ấy. Cảm giác đã tạo nên thái độ nhìn và cả thời tiết đời sống… Những lúc như vậy, tôi biết do cái khung cảnh dưới giàn mướp đã tác động đến chúng tôi nên cách nhìn, cách nghĩ của mọi người, của tôi trở nên lãng mạn như vậy.

Tạo hóa là một đấng sáng tạo điềm tĩnh, lạnh lùng, có phương pháp nhưng xét cho cùng cái mục đích thì lại để mở cho con người. Bầu trời cảm lạnh hay bầu trời trong veo là do cảm giác. Giàn mướp thơm tho hay không mùi vị cũng là cảm giác. Phàm những gì tinh tế chỉ có nơi những tâm hồn biết tĩnh lặng, biết lùi khỏi ồn ào, hào nhoáng, phù hoa.

Nhà thơ Sao Mai viết những câu thơ đã trở thành cổ điển về cái “trưa mướp quê” như có như không. Ấy vậy mà mỗi lần tôi nhớ lại, lẩm nhẩm đọc cứ rờn rợn trong người. Giàn mướp của má tôi, câu hỏi như không hỏi của nhà thơ Sao Mai: Vàng hoa trưa ấy còn bay phấn đã tạo ra những dấu lặng trong đời sống tinh thần của tôi, mãi mãi là như thế.

NGUYỄN HIỆP

BÀI THƠ ‘MỘT SỚM MAI VỀ’ CỦA TƯỜNG LINH
(Nguồn: ThiCa.net)

Một sớm mai về
Ngày vui thứ nhất
Ta đi chân đất
Mặc áo vải thô
Dẫm lá tre khô
Rụng đầy lối sỏi
Ta cười ta nói
Ta hát nghêu ngao
Bước thấp bước cao
Qua bờ ruộng nhỏ
Mẹ già ta đó
Hái mướp bên rào
Áo nâu thủa nào
Thêm nhiều mụn vá
Cần chi Mẹ à

Một sớm mai về
Thằng bé nhà quê
Thoát tầm lửa đạn
Đầu ngày nắng sáng
Nhà ai chung vườn
Khói bếp mến thương
Thơm xôi nếp mới
Chia xa vời vợi

Một sớm mai về
Tắm nước sông quê
Ngàn đời chẳng đục
Ta buông cần trúc
Bờ cỏ êm ngồi
Con giếc thả mồi
Con rô đớp bóng
Đài sen sương đọng
Hồ lộng màu thu
Trên ngọn mù u
Có đôi chim gáy
Trong chòm lau sậy
Tiếng quốc u oa
Dưới bóng đa già
Cút côi quán nước
Nằm trên cỏ mượt
Ta nhẩm vần thơ
Giấc mơ choàng tỉnh
Ngày ấy… bao giờ? 

(Nghe ‘Một sớm mai về’ qua nét nhạc Trầm Tử Thiêng và tiếng hát Khánh Ly)

[footer]

Ngựa phi đường xa (Lê Yên)

Tiếp nối hình ảnh ngựa trong dòng nhạc xưa, hôm nay chúng tôi mời quý vị trở lại với thời kỳ đầu của nền tân nhạc Việt Nam qua nhạc phẩm ‘Ngựa phi đường xa’ của nhạc sỹ Lê Yên. Theo nhiều nguồn thông tin mà chúng tôi sưu tập được thì bản này được nhạc sỹ Lê Yên cho phổ biến vào năm 1945. Có thể nói đây là bản nhạc đầu tiên đưa hình ảnh NGỰA vào âm nhạc.

Trước năm 1975, ‘Ngựa phi đường xa’ đã gắn liền với Ban Hợp Ca Thăng Long với khả năng giả tiếng ngựa hý độc đáo của ca sỹ Hoài Trung (tức Phạm Đình Viêm, người anh cùng cha khác mẹ với nhạc sỹ Phạm Đình Chương).

ĐÔI NÉT VỀ NHẠC SỸ LÊ YÊN
(Nguồn: Wikipedia)

Lê Yên tên thật Lê Đình Yên (1917 – 1998) là một nhạc sĩ tiền chiến nổi tiếng, thuộc thế hệ tiên phong của tân nhạc Việt Nam. Ông là tác giả của những ca khúc Bẽ bàngXuân nghệ sĩ hành khúcNgựa phi đường xa

Lê Yên sinh ngày 30 tháng 7 năm 1917 tại Đông Yên, Quốc OaiSơn Tây (nay thuộc Hà Nội). Ông tự học nhạc từ khi 14, 15 tuổi và biết kéo violonvioloncelle để tham gia vào các ban nhạc tài tử lúc đó, trình tấu nhạc cổ điển.

Lê Yên thuộc nhóm Tricéa cùng với Văn Chung và Doãn Mẫn. Họ cùng nhau chơi nhạc và bắt đầu sáng tác khi tân nhạc chưa chính thức hình thành. Lê Yên viết những ca khúc đầu tay Vườn xuânMột ngày vui khi 18 tuổi, vào năm 1935.

Năm 1935 ông viết bản Bẽ bàng, năm 1937 viết Xuân nghệ sĩ hành khúc và 1945 bài Ngựa phi đường xa. Những nhạc phẩm này vẫn được các ca sĩ của Sài Gòn trước 1975 trình diễn. Ngựa phi đường xa là một trong những ca khúc ban Thăng Long trình bày được khán giả yêu thích nhất.

ĐÔI NÉT VỀ NHẠC PHẨM ‘NGỰA PHI ĐƯỜNG XA
(Nguồn: tác giả Trầm Thiên Thu đăng trên ThanhLinh.net)

Trải qua hơn nửa thế kỷ, ca khúc “Ngựa Phi Đường Xa” vẫn căng đầy sức sống trong lòng người Việt ở mọi nơi.

Với tiết tấu nhanh và giản dị của nhịp 2/2, ca khúc này được viết ở âm thể Fa Trưởng, một dạng âm thể phổ biến, vẫn thể hiện được tiếng vó ngựa phi dứt khoát và oai hùng. Ca từ bình dị nhưng vẫn sâu sắc, đầy hình tượng và có vần điệu như thơ.

Mở đầu, NS Lê yên viết: “Ngựa phi, ngựa phi đường xa, tiến trên đường cát trắng trắng xóa, tiến trên đường nắng chói chói lóa, trên đồng lúa theo cánh chim trời bay trên cao, cánh đồng lúa in sắc chân trời mây lan xa”. Những hình ảnh rất quen thuộc và bình thường: cát trắng, nắng chói, đồng lúa, nhưng vẫn có gì đó “độc đáo” khiến người ta hình dung bóng ngựa lao nhanh đi xa…

Từ những hình ảnh quen thuộc đó, tác giả dẫn đưa người nghe vào một thế giới khác thuộc tinh thần:“Ngựa phi ngoài xa thật mau, lúc nguy nàn ta yêu thương nhau, lúc bên đời quyết sức phấn đấu, giống Tiên Rồng hết sức phấn đấu, cùng mây nước ta hát vang lừng trong nắng vàng, nhìn mây nước ta hát vang lừng trong nắng đào”. Hình ảnh Việt Nam nổi lên khi tác giả dùng cụm từ “giống Tiên Rồng”. Dân Việt được mệnh danh là con của Rồng, cháu của Tiên, dù gian khó nhưng luôn hăng say và nỗ lực phấn đấu vì Nước Việt mến yêu.

 Điều khiển ngựa không phải là dễ, phải luyện tập phi ngựa, phải có nghệ thuật và phải khéo léo cầm cương mới khả dĩ điều khiển ngựa theo ý mình, nhất là đối với những con ngựa chứng. Giai điệu đoạn nhạc này trầm xuống, thể hiện sự chú ý và nỗ lực của nài ngựa: “Ghìm từ từ ngọn đồi dốc, trèo từ từ, suối chân đèo nước chảy lừ đừ, sát bên dòng suối chảy lừ đừ, cờ tung gió bay ngựa bay phất phới, bờm tung gió bay đùa bay phất phới. Ghìm từ từ dừng trong gió ngàn vù vù, bước qua dồn cát bụi dạt dào, đường xa tắp bao bầy chim đón chờ”.

 Cả một cánh đồng mênh mông hiện ra như một bức họa, một kiệt tác: Ngựa phi khiến cát bụi mịt mù dọc theo dòng suối chảy êm đềm, trong khi gió vi vu lay ngàn cây xanh lá. Một bức họa đồng quê rất trữ tình và thơ mộng, đậm nét quê hương!

 Đoạn tiếp theo có giai điệu cao như lúc ngựa hí vang và chồm lên, rồi phi nước đại: “Ngựa phi trên con đường, hung hăng trên cánh đồng mênh mông, cất tiếng ca, chúng ta cười vang! Ngựa phi trên con đường, phi mau trong sương mờ đêm thâu, lao mình trong nắng mưa dãi dầu”. Ngựa vẫn dai sức phi ở mọi nơi, trong mọi thời tiết, dù ngày hoặc đêm, bất kể không gian và thời gian. Sức ngựa bền bỉ như vậy phải là ngựa giỏi lắm. Và nài ngựa cũng cảm thấy sảng khoái và hạnh phúc.

 Câu kết lặp đi lặp lại 4 chữ “ngựa phi đường xa” diễn tả vó ngựa tiến xa dần: “Ngựa phi, ngựa phi đường xa. Ngựa phi, ngựa phi đường xa. Ngựa phi, ngựa phi đường xa. Ngựa phi đường xa”. Ngựa cứ phi nhanh, phi xa,… không hề biết mệt mỏi.

 Mỗi chúng ta cũng như ngựa vẫn hí vang và chồm lên để vượt qua mọi nghịch cảnh.

Xuân họp mặt (Văn Phụng)

Trên đường từ quê Ngoại ở Bến Tre quay trở lại Sài Gòn sau tết Giáp Ngọ 2014, chúng tôi có hỏi cô con gái nhỏ (mới 7 tuổi, đang học lớp một) về “điều gì làm con thích nhất mỗi khi về quê ăn tết?” Thật bất ngờ khi câu trả lời là “con được họp mặt và chơi với các anh chị”. (Xin mở ngoặc nói thêm ‘các anh chị’ ở đây là các anh chị họ, bé vẫn chưa có anh chị em ruột) Thật trùng hợp, trong thâm tâm của Dòng Nhạc Xưa chúng tôi, những người không còn trẻ, ngày xuân ngày tết cũng chính là những ngày của sự “họp mặt”: với ông bà, cha mẹ, các bạn thời niên thiếu, bà con chòm xóm và cả cô láng giềng. Cũng nhờ tinh thần “họp mặt” này mà dân tộc Việt Nam chúng ta vẫn còn giữ được nhiều nét văn hóa đặc trưng và đáng trân trọng như thế!

Mong sao truyền thống “xuân họp mặt” sẽ mãi trường tồn cùng quê hương Việt Nam của chúng ta, như một bản nhạc xuân nổi tiếng viết năm 1973 của cố nhạc sỹ Văn Phụng.

Xuân họp mặt (Văn Phụng). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Xuân họp mặt (Văn Phụng). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
xuan-hop-mat--1--van-phung--dakto--amnhacmiennam--dongnhacxua.com
xuan-hop-mat--2--van-phung--dakto--amnhacmiennam--dongnhacxua.com
xuan-hop-mat--3--van-phung--dakto--amnhacmiennam--dongnhacxua.com

KHÔNG CÒN TẾT

(Nguồn: tạp văn của Lê Minh Nhật đăng trên Tuổi Trẻ Cuối Tuần)

Sáng mùng bốn, mẹ bưng cặp dưa hấu trên bàn thờ gia tiên xuống, mấy đứa cháu tròn mắt: Hết tết rồi hả ngoại? Ờ, người lớn thì hết nhưng con nít vẫn còn đến ra giêng.

Minh họa: Đức Trí
Minh họa: Đức Trí

Chưa chắc, con thấy người lớn thường ăn tết lâu hơn con nít. Đứa cháu nổi tiếng có năng khiếu lý sự lại “trở chứng vặn vẹo” đầu năm.

Những đứa con của mẹ, trễ nhất là chiều mùng hai chúng đã tề tựu đông đủ dưới mái nhà mà cách nay mấy chục năm trước chúng lần lượt được sinh ra. Chỉ năm đứa ban đầu, sau đó nhân lên gấp đôi khi dựng vợ gả chồng; cứ mỗi năm, trong số đó ít nhất lại “đóng góp” cho việc tăng dân số trên toàn cầu một cá thể. Tính đến cái tết này thì đã tăng gấp bốn lần so với nguyên trạng.

Chiếc bàn tròn giữa nhà không còn đủ chỗ ngồi cho tất cả nên mâm cơm sum họp phải dọn trên bộ ván gõ. Bộ ván mà khi còn sống cha đã mua với sự tiên đoán tài tình rằng: Con cháu của mình sau này ngồi xếp bằng trên đó là vừa đủ!

May là nhà nước giới hạn chỉ tiêu chứ cứ thả cửa như hồi trước thì chắc cả nhà mình phải ngồi bẹp ngoài sân mới đủ chỗ. Người anh cả thay chỗ cha ngồi so đũa xưa kia, sau khi “duyệt quân số” của đại gia đình, buông câu pha trò rồi phớt lờ câu hỏi của đứa cháu ưa lý sự: Thả cửa là sao hở cậu?

Sau mâm cơm sum họp, những đứa con của mẹ lại tản ra khắp xóm để thắp nhang cho những người vắng mặt: những ông chú, ông bác, bà cô… những nhà mà cách đây vài mươi năm chúng từng để lại đó ít nhiều kỷ niệm; hễ nhắc đến con của bà Hai là người ta nhắc ngay đến cái câu: con trai con gái gì cũng phá như quỷ sứ!

Những bạn cấy, những bạn chăn trâu, phát cỏ ngày xưa, không ít đứa đến cái tết này lại “bể kế hoạch”. Thằng nuôi vợ đẻ từ lúc giao thừa chắc cho đến hết mùng, đứa bụng đội lùm lùm thẹn thùng ra cửa đón khách với ba bốn đứa con loi nhoi lít nhít chạy theo í ới. Gì thì gì, mỗi nhà cũng phải “vào ba ra bảy” mới thấm thía hết cái tình quê sau cả năm dài phờ mặt ở quê người.

Thấm thía đến nỗi cứ mỗi lượt ghé vào một nhà là thể nào cũng phải “dằn cọc” lại một người trong cánh đàn ông. Giáp vòng xóm, lúc quay về chỉ còn những “mẹ sắp nhỏ” với một bầy con nít mặt mày phờ phạc, cố ghi lại trong đầu thứ bậc của những người mà mình khoanh tay thưa gởi suốt từ sáng sớm đến chạng vạng.

Cánh đàn ông “rơi rớt” đâu đó dọc đường, chỉ còn cánh phụ nữ nhưng cũng vẫn phải ghé vào một nhà cuối cùng, thoi loi trên ngọn kinh trước khi băng tắt ngả ruộng về. Nhà của bà mụ vườn duy nhất trong xóm. Tụi con bà Hai chính một tay tui đỡ chớ ai vô đây!

Bà mụ vườn không còn để nhắc đi nhắc lại cái câu ấy mỗi khi chống gậy ra ngoài cửa, đón những đứa trẻ không còn trẻ đến thăm mình vào mỗi dịp tết. Bà đã đi theo những người cùng thời với mình vào những tháng ngày cuối cùng lạnh giá chưa từng thấy của năm cũ.

Mới năm ngoái thôi, bà còn lụm cụm soạn bộ đồ nghề của mình khi ngoài ngõ vang tiếng gọi: Em dâu con chuyển dạ rồi bà ơi! Đau gần cả tiếng đồng hồ rồi, con đậu xuồng dưới bến đợi nè, nhanh nhanh lên. Rồi tiếng cười phá lên rộn ràng làm bà sực nhớ ra: mình đã giải nghệ kể từ khi có cái trạm y tế, trước cả lúc bà tay run chân yếu mắt mờ.

Đứa con gái xưa kia nổi tiếng quậy phá hơn con trai, rưng rưng khi nhắc lại kỷ niệm của mình với bà mụ vườn.

Tết mà toàn nhắc chuyện xưa, tụi con không hiểu gì hết!

Trẻ nhỏ cằn nhằn.

Trong mắt chúng, người lớn thật lạ lùng. Họ cứ chờ đến tết để đi tìm những thứ được gọi là kỷ niệm và nhắc nhớ nó một cách nâng niu trân trọng, mặc dù chúng vô hình và quên bẵng: suốt một thời gian dài họ đã bỏ lăn lóc chúng ở nơi nào đó.

Trẻ nhỏ không hay chính chúng cũng đang bắt đầu tích cóp và bắt đầu bỏ quên. Nhiều đứa trong số chúng cất kỹ đến nỗi có lẽ trong tương lai gần sẽ không tài nào tìm ra cho được.

Lưỡi dao vừa xắn vào trái dưa hấu là đã phát ra tiếng bụp nho nhỏ. Cả một màu đỏ tươi hiện ra như một điềm báo, một lời chúc tốt lành. Mẹ phân phát hết cho con cháu, dâu rể, mỗi đứa một miếng là vừa đủ; chỉ riêng mình mẹ ngồi ngắm đàn con hối hả ăn sợ trễ chuyến xe đò cuối ngày. Sau món quà tết này, chúng lại cồn cả ra đi như chính lúc sửa soạn quay về.

Ra khỏi ngõ quê mình, những đứa con ấy đã không còn tết nữa!

LÊ MINH NHẬT

[footer]

Giang hồ Sài Gòn đi vào nghệ thuật

Tiếp nối dòng văn nghệ về thế giới ngầm của Sài Gòn ngày trước, [dongnhacxua.com] xin đăng lại một bài viết trên VietnamNet.vn để úy vị có nhiều thông tin hữu ích.

CHUYỆN GIANG HỒ SÀI GÒN ĐI VÀO NGHỆ THUẬT
(Nguồn: VietnamNet.vn)

Thực ra, không phải bây giờ đất Sài Gòn, nay là TP.HCM, mới có nhiều tội phạm. Từ xa xưa, Sài Gòn được ví von là “Hòn ngọc viễn Đông” là lãnh địa làm ăn của giới tội phạm cả nước tập trung về đây.

Trước năm 1975, có thể xem là thời điểm “thịnh” nhất của tội phạm xã hội. Hồi ấy, người ta gọi chúng là “giang hồ”, “du đãng”…

Từ hảo hán thời loạn đến tội phạm

Thế giới giang hồ Sài Gòn, có thể tạm phân chia làm 3 giai đoạn lớn kéo dài gắn bó với những biến cố lịch sử của nước ta.

Thời Pháp thuộc, đã manh nha xuất hiện tầng lớp tội phạm cướp giật, quậy phá ở nhiều địa phương.

Sài Gòn lúc đó đang trong giai đoạn mới hình thành, là đô thị mới, kinh tế – thương mại phát triển mạnh mẽ vào bậc nhất ở Đông Dương.

Đường phố Sài Gòn trước năm 1975. Ảnh: VietnamNet.vn
Đường phố Sài Gòn trước năm 1975. Ảnh: VietnamNet.vn

Bởi vậy, Sài Gòn không chỉ là “đất lành” cho những người có ý chí làm ăn, tìm cơ hội thay đổi cuộc đời mà cũng là ‘đất sống” cho giới tội phạm quy tụ về “làm ăn”, giành giật lãnh địa, thanh toán nhau. Nhiều nhân vật du đãng có tiếng tăm được chính quyền thời bấy giờ trọng dụng, như Bảy Viễn…

Tuy nhiên, phát triển mạnh mẽ, có tổ chức tinh vi, chặt chẽ là giai đoạn từ những năm 60 đến năm 1975. Bằng những trận thư hùng đẫm máu, thế giới giang hồ Sài Gòn đã định hình thế “tứ trụ” do 4 băng nhóm nổi tiếng thống lĩnh, sử sách gọi nhóm “tự trụ” này bằng cái tên mỹ miều du nhập từ Hong kong “Tứ đại thiên vương” là Lê Đại (Đại Cathay) – Huỳnh Tỳ – Ngô Văn Cái – Nguyễn Kế Thế.

4 “đại vương” này chia nhau cai quản thế giới ngầm Sài Gòn một thời gian dài. Trong đó, băng của Đại Cathay dù sinh sau đẻ muộn nhưng nổi đình nổi đám nhất, đến mức như huyền thoại.

Tương truyền, Đại Cathay đã dám tung quả đấm như trời giáng vào bụng của Trung tá Nguyễn Cao Kỳ – sau này là trung tướng, phó tổng thống, thủ tướng Việt Nam cộng hòa trong vũ trường – chúng tôi sẽ nói rõ ở những phần sau.

Chế độ Việt Nam cộng hòa thời kỳ bấy giờ phải đối phó vô cùng vất vả. Có những lúc giữa quân cảnh và giới giang hồ phải bắt tay nhau để “chung sống”.

Vì bản tính ngông nghênh, Đại Cathay đã bị tiêu diệt. 3 “đại vương” còn lại vẫn tiếp tục hoạt động cho đến ngày giải phóng miền Nam. Chúng đã bị chính quyền Cách mạng trừng phạt, dẹp triệt để, đem lại bình yêu cho nhân dân TP.HCM.

Lịch sử giang hồ Sài Gòn ngoài “tứ đại thiên vương” còn nhiều nhân vật nổi tiếng khác như Bạch Hải Đường, Điềm Khắc Kim, Quý “tử hình” (anh ruột Lai anh và Lai em, 2 tên bị tử hình trong vụ án “Năm Cam và đồng bọn”), anh em võ sĩ Hồng Cương- Hồng Trực cai quản khu Cô Bắc – Cô Giang v.v…

Trương Văn Cam, tức Năm Cam đã có mặt trong thế giới giang hồ Sài Gòn vào những năm 1964 – 1965. Tuy nhiên, y chỉ là vô danh tiểu tốt, nương tựa vào ông anh rể là Bảy Si, lúc này đã có số má.

Lúc ấy không ai có thể biết trước rằng 30 năm sau Năm Cam sẽ trở thành ông trùm xã hội đen trên đất Sài Gòn.

Lúc ấy, Lâm chín ngón đã là tay chân thân tín của Đại Cathy, gặp Năm Cam không thèm ngó bằng nửa con mắt.

Có lẽ Năm Cam cũng không thể nghĩ có ngày hắn lại ngồi “chiếu trên” với bậc đàn anh cao vời vợi như Lâm chín ngón.

“Thành tích” lớn nhất của kẻ vô danh Năm Cam lúc bấy giờ là cứu Huỳnh Tỳ chạy thoát trong một cuộc đấu súng với lính dù…

Sau ngày giải phóng miền Nam, những chiến dịch của lực lượng Công an TP.HCM từ năm 1975 đến những năm 1980 đã xóa sổ cơ bản các thủ lĩnh khét tiếng và làm tan rã nhiều băng nhóm giang hồ còn sót lại. Những kẻ cầm đầu đều bị pháp luật trừng trị.

Tuy nhiên, như những loài cỏ độc, trên mảnh đất Sài Gòn – TP.HCM luôn phải đối phó với nạn lưu manh, cướp giật lúc rộ lên, lúc lắng xuống.

Những băng nhóm quy mộ như thời trước 1975 không còn đất sống thì xuất hiện nhiều băng nhóm nhỏ lẻ luôn là thách thức với lực lượng công an TP.

Vụ Năm Cam là bài học không thể quên vì sự sơ hở, mất cảnh giác đã để sống dậy tổ chức tội phạm quy mô, mang đậm chất tội phạm mafia, không còn phảng phất chất “du đãng”, “giang hồ” như trước kia.

Giang hồ đi vào …nghệ thuật

Ông trùm mafia Ý ở đảo Sicin trở thành bất hủ khi thành nhân vật chính trong tác phẩm Bố già (The Godfather) nổi tiếng của nhà văn Mỹ gốc Ý tên Mario Puzo.

Đại Cathay, trùm giang hồ Sài Gòn một thời. Ảnh: VietnamNet.vn
Đại Cathay, trùm giang hồ Sài Gòn một thời. Ảnh: VietnamNet.vn

Tác phẩm sau đó được dựng thành phim cũng nổi tiếng không kém. Nhân vật chính Don Vito Corleone trong phim là hiện thân của ông trùm tên Don Vito Cascio Ferr di cư từ Ý qua Mỹ những năm đầu thế kỷ 20, đã gây dựng nên tổ chức maphia đầu tiên trên xứ cờ hoa.

Ở Việt Nam, nhà văn Nguyên Hồng đã lấy nguyên mẫu một tội phạm ngoài đời đi vào tác phẩm “Bỉ vỏ”. Đây là tác phẩm văn học đầu tiên ở nước ta viết về thế giới giang hồ ở đất Hải Phòng.

Thế nhưng, tội phạm trong thế giới giang hồ thông qua thế giới nghệ thuật, ảnh hưởng mạnh mẽ đến tầng lớp trẻ là hiện tượng có một không hai lại xảy ra ở Sài Gòn trước năm 1975.

Đó là băng giang hồ của Đại Cathay cũng các quân sư và người tình đều trở thành những nhân vật nổi tiếng trong các tác phẩm nổi tiếng ở miền Nam thời bấy giờ.

Tác phẩm “Điệu ru nước mắt” của nhà văn Duyên Anh lấy nguyên mẫu trùm Đại Cathay làm nhân vật chính, được thi vị hóa thành kẻ giang hồ hào hoa, lãng tử.

Tương truyền, trong quá trình cuốn “Điệu ru nước mắt” được viết, Đại Cathay đã cung cấp thuốc phiện và khách sạn yên tĩnh cho nhà văn.

Tuy nhiên, sách ra đời, dù bán rất chạy nhưng Đại Cathay không hài lòng vì vài tình tiết không được như ý, nhà văn Duyên Anh phải trốn lên Đà Lạt sống một thời gian.

Đại Cathay ngoài đời tuy không được ăn học nhưng có đội ngũ quân sư là những trí thức, nghệ sĩ có tên tuổi giúp và băng nhóm của y bớt vẻ cục súc, độc ác như băng ba tàu Huỳnh Tỳ, Hoàng Cái Thế… Quân sư Hoàng là một nhạc sĩ ghi-ta cũng là nhân vật chính trong tiểu thuyết “Vết thù trên lưng ngựa hoang”.

Tác phẩm này nổi tiếng đến mức được dựng thành phim. Nhạc sĩ tài ba Phạm Duy đã phổ nhạc bài hát cùng tên cho bộ phim này.

Lệ Hải, người tình của Đại Cathay là nhân vật xuất thân từ nhà giàu, theo tiếng gọi giang hồ đã chọn thế giới này làm lẽ sống. Cuộc tình ngắn ngủi giữa Đại Cathay và Lệ Hải được giới giang hồ đồn đại đẹp như bài thơ tình lãng mạn.

Sau đó, người đẹp Lệ Hải qua tay bao nhiêu đấng mày râu khác, có kẻ là trí thức giang hồ, có kẻ là anh hùng hảo hán và có cả …nhà thơ!

Bài hát “Loài yêu nữ mang tên em” do ca sĩ Elvis Phương trình diễn nổi tiếng một thời xuất thân từ bài thơ của nhà thơ Văn Mạc Thảo: “Ta gọi tên em là yêu nữ – Là loài yêu mị gái hồ ly” được nhạc sĩ Ngọc Chánh phổ nhạc.

Nữ văn sĩ nổi tiếng ăn khách Lệ Hằng cũng vào cuộc, từ nhân vật Lệ Hải đã viết nên tiểu thuyết “Bản tăng gô cuối cùng” xuất bản nhiều lần trước năm 1975!

Ngoài những người trong băng Đại Cathy lên sách, tiểu thuyết, thơ và phim thì các nhân vật khác như Điềm Khắc Kim, Bạch Hải Đường là những nhân vật trong các vở cải lương cùng tên. Nhiều nghệ sĩ nổi tiếng như Hùng Cường, Minh Vương đã vào vai tướng cướp Bạch Hải Đường.

Tuy nhiên, cần nói thêm, nhân vật tướng cướp Bạch Hải Đường trong vở cải lương và ngoài đời cách nhau rất xa!

Duy Chiến

[footer]

Vết thù trên lưng ngựa hoang

Nhân dịp đầu xuân Giáp Ngọ 2014, [dongnhacxua.com] giới thiệu một bản nhạc nổi tiếng có liên quan đến “ngựa”: nhạc phẩm ‘Vết thù trên lưng ngựa hoang’, một sáng tác chung của nhạc sỹ Ngọc Chánh và Phạm Duy.

Trước hết, xin mời quý vị thưởng thức ‘Vết thù trên lưng ngựa hoang’ qua tiếng hát của Elvis Phương. Theo sự nhân định chủ quan của chúng tôi là chưa có ai hát bản này đạt như anh.

Để hiểu rõ hơn về bản nhạc này, chúng ta hãy quay về nửa cuối thập niên 1960, khi cuộc chiến Việt Nam ngày càng trở nên khốc liệt. Ngày ấy có một thành phần không nhỏ trong giới trẻ lớn lên theo cách tự phát, mất phương hướng và gần như đi bên lề của xã hội. Điều này đã được thể hiện rõ nét trong các tiểu thuyết về thế giới ngầm như ‘Loan mắt nhung’ của Nguyễn Thụy Long (viết năm 1967), ‘Điệu ru nước mắt’ của Duyên Anh (một bút hiệu của nhà văn Vũ Mộng Long, xuất bản năm 1965) hay ‘Vết thù hằn trên lưng con ngựa hoang’ (cũng của Duyên Anh, 1967).

‘Loan mắt nhung’ sau này được dựng thành phim rất ăn khách, trong đó bản nhạc nền ‘Loan mắt nhung’ do Huỳnh Anh sáng tác và Thái Châu ca cũng trở nên nổi tiếng. Trước đây [dongnhacxua.com] cũng đã có một bài viết giới thiệu ‘Loan mắt nhung’.

Còn trong ‘Điệu ru nước mắt’, Duyên Anh đã ‘thi vị hóa’ chuyện đời của đệ nhất giang hồ Sài Gòn – Đại ‘Cathay’ – để Đại trở nên phong trần hơn, lãng tử hơn. Có lẽ những ai theo dõi chuyện ‘bụi đời’ ngày trước sẽ không xa lạ với tứ đại giang hồ Đại-Tỳ- Cái -Thế: Đại ‘Cathay’, Huỳnh Tỳ, Ngô Văn Cái và Nguyễn Kế Thế. Trong đó, băng nhóm do Đại cầm đầu được cho là băng đảng có tổ chức tốt nhất. Để có được điều này, Đại đã khôn ngoan thâu nạp dưới trướng nhiều đàn em thuộc đủ mọi thành phần, có thực tài, biết dùng cái đầu chứ không phải chỉ biết đâm chém. Một trong số đó là Hoàng ‘guitar’, một tay giang hồ lãng tử với biệt tài chơi guitar.

Vết thù hằn trên lưng ngựa hoang (Duyên Anh). Ảnh: http://sachxua.net/forum/index.php?topic=8287.45
Vết thù hằn trên lưng ngựa hoang (Duyên Anh). Ảnh: SachXua.net

Sau sự thành công vang dội của ‘Điệu ru nước mắt’, từ tiểu thuyết cho đến phim cho đến nhạc (bản ‘Bao giờ biết tương tư’ cũng của Ngọc Chánh & Phạm Duy), đạo diễn Lê Hoàng Hoa dựng tiếp ‘Vết thù hằn trên lưng con ngựa hoang’ năm 1971 với diễn viên Trần Quang vào vai chính Hoàng ‘guitar’.

Trần Quang và Thanh Nga trong phim Vết thù trên lưng ngựa hoang, SX 1971, đạo diễn Lê Hoàng Hoa. Ảnh: ChutLuuLai.net
Trần Quang và Thanh Nga trong phim Vết thù trên lưng ngựa hoang, SX 1971, đạo diễn Lê Hoàng Hoa. Ảnh: ChutLuuLai.net

Sau những năm lăn lộn giang hồ, Hoàng ‘guitar’ gác kiếm, mai danh ẩn tích. Thế nhưng để giải quyết một hoàn cảnh túng thiếu ngặt nghèo, Hoàng quay trở lại giới giang hồ và nhận lời làm một phi vụ. Số phận đầy oan nghiệt, Hoàng đã bị bắn gục bằng những vết đạn hằn trên lưng.

Góp phần vào thành công của bộ phim không thể không kể đến nhạc phẩm “Vết thù trên lưng ngựa hoang” do nhạc sỹ Ngọc Chánh và Phạm Duy cùng sáng tác.

vet-thu-tren-lung-ngua-hoang--0--pham-duy--ngoc-chanh--amnhacmiennam--dongnhacxua.com

Vết thù trên lưng ngựa hoang (Phạm Duy - Ngọc Chánh). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Vết thù trên lưng ngựa hoang (Phạm Duy – Ngọc Chánh). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

[footer]

Gửi người em gái miền nam (Đoàn Chuẩn – Từ Linh)

Nhạc sỹ Đoàn Chuẩn (1924 – 2001)từ hơn 50 năm qua đã được giới yêu nhạc xưng tụng là ‘nhạc sỹ của mùa thu’. Với những ‘Thu quyến rũ’, ‘Gởi gió cho mây ngàn bây’ hay ‘Tà áo xanh’, v.v. danh xưng này là hoàn toàn xứng đáng. Thế nhưng trong số trên dưới 20 đứa con tinh thần, nhà nhạc sỹ đã cho ra đời ‘đứa con út’ như là một ‘sáng tác cho mùa Xuân’. Hôm nay [dongnhacxua.com] trân trọng giới thiệu bản ‘Gửi người em gái miền Nam’, sáng tác vào mùa xuân 1956.

Xung quanh bản nhạc này có nhiều điều đáng để nói….

Đầu tiên là tựa của bài hát là ‘Gửi người em gái miền Nam’ chứ không phải là ‘Gửi người em gái’ như rất nhiều ca sỹ và nhà sản xuất âm nhạc vẫn nhầm lẫn.

Điều thứ hai là ca từ của bài hát gốc đã bị làm sai lệch rất nhiều, đến độ đã làm sai hoàn toàn ý tứ ban đầu mà nhạc sĩ Đoàn Chuẩn đã gởi gắm. Nguyên nhân chính có lẽ là do ngày đó bản này đã bị chính quyền miền Bắc khi đó không cho lưu hành rộng rãi và bằng một cách nào đó, bản này lại được phổ biến ở miền Nam. Và một điều tất yếu là do yếu tố khách quan lẩn chủ quan, ca từ của ‘Gửi người em gái miền Nam’ đã bị biến dạng khá nhiều.

Điều thứ ba là chính bản này khi đó được xem như đi ngược lại ‘định hướng’ sáng tác của chính quyền miền Bắc nên đã gây không ít khó khăn cho bản thân người sáng tác là nhạc sỹ Đoàn Chuẩn cũng như những người đã hát. 

Trước thềm năm mới Xuân Giáp Ngọ 2014, [dongnhacxua.com] xin thắp một nén nhang sưởi ấm linh hồn nhạc sỹ Đoàn Chuẩn miền cực lạc và chúc quý vị xa gần một mùa Xuân đầm ấm.

CA KHÚC ‘GỬI NGƯỜI EM GÁI MIỀN NAM’ CỦA ĐOÀN CHUẨN – NHỮNG THÔNG TIN THÚ VỊ
(Nguồn: tác giả Vu Le Nguyen đăng trên YouTube.com)

SỰ NHẦM LẪN LỜI CA ‘GỬI NGƯỜI EM GÁI MIỀN NAM’
(Nguồn: tác giả Đỗ Văn Thiện đăng trên blog của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo)

ĐỖ VĂN THIỆN: “Gửi người em gái miền Nam” là một bài hát trữ tình của nhạc sĩ Đoàn Chuẩn, được sáng tác từ năm 1956. Thế nhưng cho đến tận bây giờ rất nhiều người yêu nhạc vẫn chỉ biết đến bài hát này dưới cái tên “Gửi người em gái”, qua một phiên bản do các ca sĩ miền Nam biểu diễn ở miền Nam trước 1975, với phần lời đã bị cắt xén đến biến dạng. Giờ đây, tuy muộn nhưng có lẽ đã đến lúc nên trả lại cho bài hát nổi tiếng này những giá trị của nó, bắt đầu từ việc gọi đúng tên và hát đúng lời như nhạc sĩ Đoàn Chuẩn đã viết. 

Thủ bút của chính tác giả, nhạc sỹ Đoàn Chuẩn. Ảnh: http://nhathonguyentrongtao.wordpress.com
Thủ bút của chính tác giả, nhạc sỹ Đoàn Chuẩn. Ảnh: http://nhathonguyentrongtao.wordpress.com

Một trong những người đầu tiên hát bài “Gửi người em gái miền Nam” là tài tử Ngọc Bảo. Ông đã bỏ ra hàng tháng luyện tập bài hát này, đến nỗi chính nhạc sĩ Đoàn Chuẩn cũng phải khâm phục khi nghe ông hát. Chính vì thế nên có thể tin rằng phần lời bài hát mà tài tử Ngọc Bảo thể hiện là do nhạc sĩ Đoàn Chuẩn viết từ đầu.

Và đây là nội dung của ca từ:

1. Cành hoa tim tím bé xinh xinh báo xuân nồng
Cành đào phong kín cánh mong manh như hoa lòng
Hà Nội mừng đón Tết, hoa chen người đi, liễu rủ… mà chi.

Đêm tân xuân, hồ Gươm như say mê
Chuông reo vui, Ngọc Sơn sao uy nghi
Ngàn phía đến lễ đền
Chạnh lòng tôi nhớ tới… người em.

Tôi có người em gái, tuổi chớm đôi mươi
Mắt huyền trìu mến yêu thương
Đôi mắt em nói nhiều, tha thiết như Giáng Kiều
Hoa tình yêu!

Nhưng… một sớm mùa thu, khép giữa trời, tím ngắt
Nàng đi… gót hài xanh
Người đi trong dạ sao đành
Đường quên lối cũ ân tình… nghĩa xưa.

Rồi từ ngày ấy sống trong Nam nơi kim tiền
Ngục trần giam hãm tấm thân xinh, đôi mắt huyền
Đời nghèo không lối thoát, em tôi đành thôi, cúi đầu… mà đi.

Xuân năm nay, đường đêm Catinat
Hoa mai rơi, rủ nhau nơi phương xa
Dần trắng xóa mặt đường
Một người em gái nhớ người thương!

2. Rồi ngày thống nhất đến rất nhanh không ai ngờ
Cầu chia giới tuyến đến mai đây san đất bằng
Nụ cười trong gió sớm, anh đến tìm em… giữa cầu Hiền Lương.

Em tôi đi, màu son lên đôi môi
Khăn san bay, lả lơi bên vai ai
Trời thắm gió trăng hiền
Hà Nội thêm bóng dáng nàng tiên.

Em! Tháp Rùa yêu dấu
Còn đó nên thơ, lớp người đổi mới khác xưa
Thu đã qua những chiều nên ý thơ rất nhiều
Cả … tình yêu!

Em… nhẹ bước mà đi, giữa khung trời bát ngát
Trời ta hết màu tang
Đường xưa lối ngập lá vàng
Đường nay thong thả bao nàng đón xuân.

Lòng anh như giấy trắng thanh tân ép hoa tàn
Thời gian vẫn giữ nét yêu đương nơi hoa vàng
Dằn lòng tơ dẫn phím, ý thơ trào dâng, viết gửi vào Nam.

Đêm hôm nao, ngồi nghe qua không gian
Em tôi mơ miền quê qua sương lam
Trời Bắc lóa ánh đèn
Một người trên đất Bắc chờ em!

Có thể thấy bài hát này gồm 2 phần. Phần 1 là cảm xúc về một câu chuyện tình có kết cục chia ly buồn do hoàn cảnh chung của cả dân tộc mang đến, là nỗi niềm nhớ nhung, đau xót của tác giả khi nghĩ tới người yêu đang ở nơi xa xôi không chỉ về không gian. Khi mà phiên bản cũ từ miền Nam vẫn được phổ biến gần như là duy nhất thì không nhiều người được nghe hay biết tới những lời hát đã vẽ nên một bức tranh thơ rất đẹp mà cũng đau xót đến tê lòng về một người con gái nhỏ bé, yếu ớt đang phải cô đơn đón xuân mới giữa một nơi xa lạ, của những người xa lạ:

Xuân năm nay, đường đêm Catinat
Hoa mai rơi, rủ nhau nơi phương xa
Dần trắng xóa mặt đường
Một người em gái nhớ người thương!

Đặc biệt là phần 2 của bài hát.

Được viết từ năm 1956, gần 20 năm trước ngày đất nước thống nhất, vào thời kỳ hai miền mới bị chia cắt, khi giấc mơ đoàn tụ theo hiệp định Giơnevơ đang tắt dần, còn chưa biết được tương lai sẽ ra sao trong hoàn cảnh rối ren loạn lạc, vậy nhưng tác giả vẫn mơ “Rồi ngày thống nhất đến rất nhanh không ai ngờ/ Cầu chia giới tuyến đến mai đây san đất bằng/ Nụ cười trong gió sớm, anh đến tìm em… giữa cầu Hiền Lương”. Một giấc mơ mà trong hoàn cảnh giang sơn đã thu về một mối như ngày nay thì có thê nói đơn giản là một giấc mơ lạc quan, nhưng nếu đặt vào tâm trạng và hoàn cảnh ngày đó thì mới thấy giấc mơ xa vời ấy dường như gợi nhớ đến một nỗi đau sâu thẳm trong lòng vì tuyệt vọng trong chia ly, dù vẫn còn le lói chút tia hy vọng, nhiều hơn là niềm tin tưởng vô cớ hay lạc quan tếu như có người nhìn nhận.

Theo cách nhìn này thì những bức tranh mà tác giả vẽ nên như “Em tôi đi, màu son lên đôi môi/ Khăn san bay, lả lơi bên vai ai/ Trời thắm gió trăng hiền/ Hà Nội thêm bóng dáng nàng tiên” hay “Em… nhẹ bước mà đi, giữa khung trời bát ngát/ Trời ta hết màu tang/ Đường xưa lối ngập lá vàng/ Đường nay thong thả bao nàng đón xuân”mang nhiều ý nghĩa khác hơn, chất chứa nhiều tâm sự sâu sắc hơn là những lời bày tỏ tình cảm yêu đương trìu mến thông thường dành cho một người yêu bị chia xa do hoàn cảnh. Vì thế bài hát này, bên cạnh giai điệu đi vào lòng người, còn mang lại nhiều điều đáng để suy ngẫm và chiêm nghiệm tùy theo mức độ cảm nhận của người nghe.

Thế nhưng lời bài hát hiện vẫn còn phổ biến hiện nay chỉ còn lại 1 lời và là một sự cắt xén, lắp ghép có thể nói là tùy tiện và vụng về nếu so với nguyên gốc. Tùy theo ca sĩ thể hiện, nó có thể khác biệt đôi chút nhưng về cơ bản thì lời hát ấy như sau:

Cành hoa tim tím bé xinh xinh báo xuân nồng
Cành đào phong kín cánh mong manh như hoa lòng
Hà Nội chờ đón Tết, vắng bóng người đi, liễu rủ… mà chi.

Đêm tân xuân, hồ Gươm sao long lanh
Hoa mai rơi, rủ nhau nơi phương xa
Đường phố vắng bóng đèn
Chạnh lòng tôi nhớ tới… người em.

Tôi có người em gái, tuổi chớm dâng hương
Mắt huyền rộn ý yêu thương
Đôi mắt em nói nhiều, tha thiết như Giáng Kiều
Ôi, tình yêu!

Nhưng… một sớm mùa thu, giữa chân trời xanh ngắt
Nàng đi… gót hài xanh
Người đi trong dạ sao đành
Đường quên lối cũ ân tình… nghĩa xưa.

Rồi từ ngày ấy nước sông ngăn cách đôi lòng
Thuyền tình vỡ lỡ bến cô đơn không ai ngờ
Tình nghèo xa cách mãi, em tôi đành ôm mối sầu mà đi.

Em tôi đi, màu son lên đôi môi
Khăn san bay, lả lơi trên hai vai
Nhìn xác pháo bên thềm
Gợi lòng tôi nhớ tới người em …

Rất dễ nhận thấy phiên bản này đã phá bỏ hoàn toàn cấu trúc ban đầu và làm biến dạng hẳn ý nghĩa của bài hát. Thế nhưng thật lạ là các ca sĩ hiện nay vẫn vô tư trình diễn cái phiên bản méo mó này mà không gặp bất kỳ ý kiến nào của các cơ quan quản lý biểu diễn âm nhạc.

Việc một bài hát rất hay đã một thời gặp phải những trắc trở, bị ngưng phổ biến vì những nguyên nhân này nọ đã là chuyện quá khứ. Nhưng đến bây giờ, khi không còn lý do gì để tiếp tục những sai lầm hay ấu trĩ ấy nữa mà người ta vẫn để yên cho cái vỏ xấu xí kia che lấp mất cái giá trị thật của bài hát thì đó là một điều đáng phải lên tiếng. Bởi nó không chỉ làm ảnh hưởng đến quyền lợi và uy tín của riêng nhạc sĩ Đoàn Chuẩn, mà còn làm biết bao người nghe và yêu âm nhạc nước nhà phải chịu thiệt thòi vì họ chỉ được thưởng thức một thứ đồ dởm mà không hề biết.

Đến bao giờ bài hát nổi tiếng này mới được trả lại tên và ca từ như nó vốn có?

[footer]