Tuổi thơ của chúng tôi gắn liền với chiếc máy cassette rè rè mà ba tôi cẩn thận giữ lại như một kỷ vật thời tham gia quân đội miền Nam Việt Nam. Khi ấy, đầu những năm 1980, là quãng thời gian khó khăn về mọi mặt, từ viên kẹo, hộp sữa, ký thịt heo cho đến đời sống tinh thần. Đĩa nhựa thì không còn được sản xuất và dần thay thế bằng băng cassette. Thuở đó, giống như nhiều làng quê Việt Nam khác, mảnh đất Tuy Hòa miền Trung quê tôi đời sống vật chất tuy thiếu thốn nhưng tình làng nghĩa xóm thì tràn đầy.
Đã hơn 30 năm nhưng chúng tôi vẫn còn nhớ như in mỗi đêm cúp điện (lúc đó buổi tối vẫn chưa có điện thường xuyên như bây giờ), ba tôi và mấy bác lớn tuổi tập trung lại, uống trà, ngắm hoa và mở cassette nghe đọc truyện Tàu như ‘Tam Quốc Chí’, ‘Thủy Hử’; còn lũ trẻ chúng tôi tụ tập xung quanh lắng nghe từng câu chữ, mê hoặc giọng đọc truyền cảm và liêu trai của xướng ngôn viên.
Rồi cũng có khi anh chị chúng tôi mượn được của bạn bè một băng cassette cũ của Duy Khánh hay Chế Linh thâu âm trước 1975, và nhất là cuốn ‘Sơn ca 7 – Khánh Lý & Trịnh Công Sơn’. Tôi còn nhớ lúc đó vừa nghe vừa phải trực trước cái máy để xem có bị rối băng hay không. Nếu có thì phải tháo ra, cẩn thận kéo cuộn băng từ để đừng làm nó đứt hay bị dập. Rồi vui nhất là đi hái lá mít để lấy mủ mà dán cho nó ‘lành lặn’ trở lại. Xong, nghe lại thấy vui ghê!
Mới đó mà đã hơn nửa đời người! Qua bài viết này [dongnhacxua.com] xin tri ân ba mẹ, anh chị, bạn bè và cả những chiếc máy và băng cassette cổ lỗ sỉ đã làm phong phú cho tuổi thơ của cả một thế hệ chúng tôi.
(Thethaovanhoa.vn) – Ở thời buổi bây giờ, để giới thiệu cho một đứa trẻ lên 8 hiểu thế nào là băng cassette thì chỉ còn cách search google trên iPad. Nhưng với những thế hệ trưởng thành từ những năm 80 trở về trước, cassette luôn là một thế giới. Hôm 13/9 vừa qua, thế giới đã long trọng kỉ niệm 50 năm ngày cassette ra đời.
Gọi “long trọng” cho khí thế chứ thật ra sự kiện lớn nhất là một ngày hội mang tên Cassette store day được tổ chức không xôm tụ lắm ở Úc, còn thì vẫn chỉ là những hoài niệm trên báo, hoặc đâu đó trên Facebook. Dư chấn của nó là những tiếng thở dài.
Ngày 13/9/1963, hãng Philips long trọng tuyên bố với thế giới rằng một sản phẩm mới tinh ra đời để thay thế cho những chiếc băng cối cồng kềnh, vừa dễ cầm, dễ mang theo và chất lượng thu thanh vẫn được đảm bảo. Họ gọi đó là cassette.
Băng cassette. Ảnh: TheThaoVanHoa.vn
Cassette là một thiết bị dùng để lưu trữ dữ liệu âm thanh trên 2 mặt. Cuộn băng từ trường này rộng 3,81 mm, còn độ dài của cuộn băng tùy thuộc vào thời gian có thể chạy của cả băng, như có nhiều chuẩn thông dụng C60 (30 phút âm thanh mỗi mặt), C90 (45 phút mỗi mặt)… So với một chiếc đĩa than bị khống chế nhiều về thời gian thì việc nghe được 90 phút âm nhạc từ cassette là một khác biệt lớn. Chưa kể cassette tiện lợi, nhỏ gọn và giá thành rẻ hơn.
Từ năm 1965, những băng nhạc cassette thông dụng bắt đầu được bán ra thị trường, lúc đầu chỉ có thể phát bằng chất lượng âm thanh mono nhưng từ năm 1966 đã có băng cassette stereo. Cho đến năm 1988, riêng hãng Philips, đã bán được khoảng 3 tỷ cuộn băng cassette chưa kể những hãng sản xuất nổi tiếng khác như TDK, Maxell, hay Nakamichi…
Dale Wiggins, trưởng bộ phận nghiên cứu của hãng Philips tại Mỹ cho rằng cassette ra đời là nhu cầu thiết yếu để đơn giản hóa việc nghe nhạc, đặc biệt là từ băng cối, một công nghệ khá cồng kềnh. “Với cassette, bạn chỉ cần đưa nó vào hộc băng và nhấn play, tất cả còn sẽ là tự động”. Sau cassette là sự ra đời của CD, DVD và bây giờ là nhạc số.
“Nhưng âm thanh của cassette vẫn mang một màu sắc riêng, cho dù không thật sự hay bằng đĩa nhựa nhưng chất âm analog của nó vẫn hơn đứt công nghệ số ngày nay”, Patrick Butler, một tay mê cassette chính hiệu, đã “gào” lên như thế trên tờ tạp chí dành cho dân chơi âm thanh, Stereophile.
Nhưng không phải ai cũng là Butler, âm nhạc vẫn là âm nhạc dù nghe qua bất kỳ hình thức gì và số đông vẫn nghe theo cách của xu hướng tân thời. “Đúng là tôi rất buồn bã, cả một thời kỳ, nhiều thế hệ đã lớn lên bằng băng cassette và giờ đây tất cả chỉ còn là ký ức”, Scott Seward, một người phê bình âm nhạc ở Massachusetts, phát biểu. “Nhưng cassette không bị diệt vong, tôi vẫn thấy những nhóm nhạc indie phát hành cassette vì đơn giản giá thành chúng chỉ là 1 USD so với 18 USD của đĩa nhựa hay 10 USD của CD. Ở Trung Đông hay những vùng thôn quê tại châu Á những chiếc băng cassette vẫn được nghe thường xuyên. Tất nhiên thế giới vẫn phát triển nhưng cassette sẽ không bao giờ chết, giống như đĩa than vậy. Sự hoài cổ và giá thành rẻ sẽ giúp chúng tiếp tục tồn tại”, Seward nói thêm.
Một chuyên gia của hãng Maxell khẳng định dù có nghe đi nghe lại hàng trăm lần nhưng chất lượng cassette của Maxell ngày xưa vẫn ổn định. “Tất nhiên là băng sẽ nhão nhưng nếu bạn chỉ để nghe và không thâu đi thâu lại nhiều lần thì chất lượng của chúng vẫn rất tuyệt hảo”. Độc giả của nhiều tờ báo lớn đã nói rằng họ luôn nhớ cảm giác dùng bút chì cho vào bánh răng quay để gỡ rối băng cassette là một trải nghiệm chẳng bao giờ quên.
Ở Việt Nam những chiếc băng cassette cũ sau một thời gian nằm kho, giờ cũng khá có giá trị trên thị trường, đặc biệt là những cuộn băng gốc nước ngoài hoặc những băng cassette ở miền Nam trước đây. Đi theo nó là cả một thị trường máy cassette cũng nhộn nhịp không kém.
Liệu cassette có trở lại thời hoàng kim của mình hay chỉ là một thú chơi hoài niệm? Điều này rất khó trả lời. Tờ Wftv cho rằng thay vì trả lời việc bạn cần phải làm là hãy đem chiếc máy casette vốn để quá lâu trong nhà kho ra lau thật sạch, đừng quên chùi đầu từ và chọn lại một cuồn băng ngày xưa từng rất thích ra nghe. Hãy nghe lại và rủ những người trẻ nghe cùng. Câu trả lời sẽ nằm ở quyết định sau đó của bạn.
Trong gia tài sáng tác đồ sộ của Trịnh Công Sơn, nhà nhạc sỹ đã ưu ái có đến hai bản nói về hoa quỳnh: Quỳnh Hương (1974) và Chuyện Đóa Quỳnh Hương (1982). Theo thiển ý của [dongnhacxua.com], quỳnh hương hay quỳnh hoa là một loài hoa đặc biệt. Hoa đâm ra từ lá chứ không phải từ thân cây như nhiều loài hoa khác. Quỳnh chỉ nở về đêm, khoảng 8h-9h tối và tàn lúc 11h-12h đêm. Mùi hương rất dễ chịu, làm ngất ngây nhưng không quá nồng nàn như hoa sữa. Rất lâu mới nở một lần nhưng rồi lại tàn nhanh. Khi tàn, nhìn cánh hoa buồn và đầy tâm trạng, như chất chứa một điều gì đó còn vương vấn, giống một sắc đẹp tận hiến cho đời rồi lặng lẽ tàn phai. Dù lòng rộn rã như “Quỳnh Hương” hay sâu lắng trong “Chuyện Đóa Quỳnh Hương”, cầu chúc bạn có được những phút giây thật sự thanh thản để cảm nghiệm món quà đơn giản nhưng nhiều giá trị mà Trời Đất ưu ái ban tặng cho chúng ta!
Theo lời kể của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn: “Lúc viết bản này mình không đặt tên là Quỳnh hoa hay Hoa quỳnh chẳng hạn, vì nó … không hay, cho nên có nảy ý Quỳnh hương, không ngờ có người con gái cũng có tên Quỳnh Hương, và khi nàng nghe bản này, nàng phải lòng rồi tìm tới làm quen và làm thân… Một hôm, trước khi ra đi, nàng đến từ giã, cắm một lá quỳnh trong bồn balcon cạnh phòng, và đêm nay là lần đầu tiên Quỳnh nở…”
“Đêm nay” mà Trịnh Công Sơn tâm sự trên đây là một đêm của năm 1982, khi Trịnh Công Sơn đàm đạo cùng vài người bạn văn nghệ. Cũng có thể từ cảm hứng này mà nhà nhạc sỹ viết “Chuyện đóa quỳnh hương” chăng?
Chuyện đóa quỳnh hương (Trịnh Công Sơn). Ảnh: tcs-home.org
Đầu những năm 1990, [dongnhacxua.com] đã nghe qua ‘Có phải em, mùa thu Hà Nội’ qua giọng hát Thu Phương và Hồng Nhung. Ngày đó, cùng với ‘Hà Nội, đêm trở gió’ hay ‘Hà Nội mùa vắng những cơn mưa’ … đã làm nên một làn sóng mới thật trẻ trung và đậm chất nghệ thuật về dòng nhạc trẻ nói chung và dòng nhạc về Hà Nội nói riêng. Thế nhưng xung quanh bản ‘Có phải em, mùa thu Hà Nội’ có nhiều điều thú vị mà hôm nay chúng tôi muốn giới thiệu với quý vị.
Những điều tôi viết dưới đây thực ra cũng chẳng phải là những điều tôi thực sự viết. Hay nói cách khác, nó là một dạng đạo lại những bài viết tôi vừa tìm đọc được và bạn có thể tìm thấy chúng ở những đường dẫn ở cuối cái cập nhật trạng thái dài lê thê này.
Đầu tháng tám, thấy nhiều người nhắc lại câu hát này. Tôi cũng định vậy nhưng lại thôi vì không muốn bỗng dưng trở thành kẻ bắt chước.
“Tháng tám mùa thu, lá khởi vàng chưa nhỉ?”
Nghe ‘Có phải em mùa thu Hà Nội’ qua giọng của Hồng Nhung hay nhiều ca sĩ khác, tôi vẫn nhầm lẫn một từ rất quan trọng trong câu hát, “khởi vàng” thành “rơi vàng”. Nhà thơ Tô Như Châu khi viết bài thơ này đầu năm 1970, cũng chính vào những ngày tháng tám. Hè vừa qua, thu mới chớm. Sự thay đổi của tiết trời lúc ấy chỉ đủ khiến những chiếc lá trên những tán cây đổ sang màu vàng óng. Vì lẽ ấy, ông mới dùng chữ “khởi” – bắt đầu, chứ không phải “rơi”.
Trong bài thơ còn có câu: “Lệ mừng gặp nhau ngàn phím dương cầm”. Có lẽ chẳng phải ngẫu nhiên Tô Như Châu đưa tiếng đàn piano vào một ca khúc trữ tình mà rất đỗi hào hùng như vậy. Có giai thoại kể rằng giữa lúc bom đạn chiến tranh, thi sĩ khi ấy ở Đà Nẵng tình cờ gặp được một thiếu nữ Hà Nội xóa tóc thề bên chiếc đàn dương cầm. Rồi chính vẻ đẹp của cô gái, của tiếng đàn thánh thót đã khơi dậy những trang sử hào hùng của “hồn Trưng Vương sông Hát” hay “Quang Trung vó ngựa biên thùy”. Tôi thì vẫn ngờ ngợ về tính xác thực của giai thoại này. Nhưng cũng có thể tại tâm hồn thô kệch của tôi chẳng bao giờ nhạy cảm, tinh tế và sâu sắc đến thế, và vậy nên khó mà đặt mình vào tâm hồn của một thi sĩ.
Một câu chuyện khác cũng khá đặc biệt về bài thơ sau khi nhạc sĩ Trần Quang Lộc phổ nhạc cho nó vào năm 1972. Bài hát đã có mặt trong một băng nhạc miền Nam nhưng phải đến đầu những năm 90 mới bắt đầu trở nên phổ biến qua giọng hát của Hồng Nhung, Thu Phương. Cũng khi ấy, Tô Như Châu bắt đầu công việc phát báo trên chiếc xe đạp cũ kĩ của mình. Bài hát được phổ thơ ông giờ được phát đi phát lại trên phố, tạo niềm cảm hứng để ông sáng tác bài thơ “Đi bỏ báo nghe thơ phổ nhạc” với những câu thơ rất thú vị:
“Có phải em Mùa thu Hà Nội Mùa thu trong veo mùa thu tuyệt vời Sống đẹp âm thầm và khát vọng Bỏ báo đọc thơ nghe nhạc đã đời”
Nhưng niềm vui sướng của Tô Như Châu bỗng quay ngoắt 180 độ khi ông phát hiện ra ca khúc được Trần Quang Lộc phổ nhạc gần như không hề có thông tin tên tác giả bài thơ gốc. Trần Quang Lộc ban đầu lấp liếm, giả vờ như không biết Tô Như Châu là ai. Nhưng rồi với những bằng chứng xác đáng, cuối cùng cái tên Tô Như Châu cũng được ở vị trí xứng đáng của nó. Tuy nhiên thật buồn vì ông không được nhận nhuận bút bản quyền như đã hứa cho tới tận lúc qua đời vì bạo bệnh năm 2002.
Tuy vậy, đó vẫn chưa phải là điều bất ngờ nhất. Tô Như Châu lẫn Trần Quang Lộc, hai con người sinh ra tại mảnh đất miền Trung Đà Nẵng và Quảng Trị, lại chưa từng có dịp đặt chân tới Hà Nội khi tạo ra bài thơ và ca khúc bất hủ này, cho tới tận bây giờ.
http://www.thivien.net/viewpoem.php?ID=2691 http://www.anninhthudo.vn/Loi-song/La-khoi-vang-chua-nhi/412623.antd http://quannhac.net/tan-man/thang-tam-mua-thu Posted 7th August 2012 by Hoan Do
THÁNG TÁM MÙA THU, LÁ KHỞI VÀNG CHƯA NHỈ? (Nguồn: nhạc sỹ Phạm Anh Dũng)
Nhạc sĩ Trần Quang Lộc sáng tác nhiều. Trong số đó, nổi tiếng là Về Đây Nghe Em và Có Phải Em Là Mùa Thu Hà Nội. Trước 1975, Trần Quang Lộc nổi tiếng với nhạc phẩm Về Đây Nghe Em bài nhạc phổ thơ Anh Khuê:
Về đây nghe em Về đây nghe em Về đây mặc áo the đi guốc mộc Kể chuyện tình bằng lời ca dao Kể chuyện tình bằng lời ngô khoai Kể chuyện tình bằng hạt lúa mới Và về đây nghe lại tiếng nói thơ ấu khúc hát ban đầu…
CD Đêm Màu Hồng của danh ca Thái Thanh do Diễm Xưa phát hành có bản Về Đây Nghe Em do Thái Thanh, Ý Lan và Quỳnh Dao (tức là Quỳnh Hương về sau này) hợp ca. CD hay, bài hát hay nhưng bìa CD có một sơ suất nhỏ, đề sai tên tác giả thành ra là Lê Quang Lộc. Và không thấy có ghi tên thi sĩ.
Nhạc phẩm Có Phải Em Mùa Thu Hà Nội (thơ Tô Như Châu, nhạc Trần Quang Lộc) thấy lưu hành sau 1975. Bài này có Hồng Nhung đã hát trong CD Chiều Phủ Tây Hồ, do trung tâm nhạc Mưa Hồng phát hành. Bìa CD có tên Trần Quang Lộc là tác giả nhưng cũng không thấy nhắc đến tên thi sĩ Tô Như Châu.
Đoạn đầu của Có Phải Em Mùa Thu Hà Nội, nhạc nằm trong âm giai Trưởng, nhạc và lời rất quyến rũ:
Tháng tám mùa thu, lá rơi vàng chưa nhỉ Từ độ người đi thương nhớ âm thầm Có phải em là mùa thu Hà Nội Tuổi phong sương ta cũng gắng đi tìm Có phải em mùa thu xưa
Đoạn 2, nhạc cũng gần giống hệt như đoạn đầu, ngoại trừ mấy chữ cuối:
Có bóng mùa thu thức ta lòng son muộn Một ngày về xuôi chân ghé Thăng Long buồn Có phải em là mùa thu Hà Nội Ngày sang thu anh lót lá em nằm Bên trời xa sương tóc bay
Câu “Ngày sang thu anh lót lá em nằm” nghe thật là giản dị nhưng đầm thắm.
Sang đoạn thứ 3 là đoạn điệp khúc, hai câu đầu, vẫn ở hợp âm trưởng:
Thôi thì có em đời ta hy vọng Thôi thì có em sương khói môi mềm Và sau đó, nhạc chuyển sang âm giai Thứ, buồn hơn: Có phải em là mùa thu Hà Nội Nghe đâu đây lá úa và mi xanh Nghe đâu đây hồn Trưng Vương sông Hát
Có một điểm nhiều người cho hơi lạ là ở khi bản nhạc lên đến cực điểm cao vút: “Nghe đâu đây hồn Trưng Vương sông Hát”. Họ không hiểu ở đây tác giả muốn nói gì vì Hai Bà Trưng tự vẫn ở sông Hát thuộc tỉnh Sơn Tây thì có liên hệ gì đến mùa Thu Hà Nội!
Lý do có lẽ như sau: Hai Bà Trưng nhảy xuống dòng sông Hát tự vận, tại tỉnh Sơn Tây. Sông Hát là giòng nước thượng lưu của sông Hồng (sông Nhị). Hồ Hoàn Kiếm và hồ Tây tại Hà Nội ngày xưa đều có nguồn từ Hồng Hà.
Đoạn thứ 4 là đoạn kết nhạc lại trở về âm giai trưởng giống như đoạn 1 và 2:
Có chắc mùa Thu lá rơi vàng tiếng gọi Lệ mừng gặp nhau xôn xao phím dương cầm Có phải em là mùa Thu Hà Nội Nghìn năm sau ta níu bóng quay về Ôi mùa Thu của ước mơ
Có Phải Em Mùa Thu Hà Nội phải nói là một bài nhạc haỵ
TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. CD Đêm Màu Hồng, Thái Thanh Hải Ngoại 3, Diểm Xưa 16 (714)540-7537 ở Hoa Kỳ. 2. CD Chiều Phủ Tây Hồ, Mưa Hồng 342 (714)531-7692 ở Hoa Kỳ, Kim Nga 01-45-829045 ở Pháp.
Phạm Anh Dũng Santa Maria, California USA
BÀI THƠ ‘CÓ PHẢI EM, MÙA THU HÀ NỘI’ CỦA TÔ NHƯ CHÂU? (Nguồn: ThiVien.net)
Tháng 11-2000 Tô Như Châu từ Đà Nẵng có gửi tặng NK tập thơ “Có phải em mùa thu Hà Nội” nxb Đà Nẵng – 1998 gồm 36 bài. Tô Như Châu (Đặng Hữu Có) sinh 1934, quê An Hải, Sơn Trà, Đà Nẵng – cư trú ở 136 Trần Phú-TP Đà Nẵng, dt.3897798; Hội Viên Hội VHNT Đà Nẵng. Nhà anh ở bên kia Sông Hàn. Năm 2000,tuy đã tren 60 xuân Thi sĩ vẫn cưỡi chiếc Honda 67 màu Bordeaux đã cũ vù vù đi “bỏ báo” kiếm cơm”: anh con ngựa già chưa mỏi vó / vẫn thênh thang bược nhẹ quanh đời / đi tung bờm tóc gió / quẳng gánh hương xa lên tiếng gọi mời / em cầu vồng bao nhiêu sắc / tháng giêng hồng rất mỏng rất mênh mông”.
Bài thơ”Có phải em mùa thu Hà Nội” anh viết vào tháng 8-1970,lúc Đà nẵng còn bời bời bom lửa chiến tranh,tình cờ anh gặp một cô gái Hà Nội chính gốc. Qua vài lần tiếp xúc & thưởng thức tiếng dương cầm thánh thót từ bàn tay trắng trẻo nuột nà mềm mại như thiên thần, lời nói dịu dàng như gió thoàng của Nàng, bỗng dưng đánh thức dậy trong lòng thi sĩ cả lịch sử hào khí của ông cha , của hồn Trưng Vương sông Hát Giang. Và thế là bài thơ ra đời…Bài thơ được Nhạc sĩ Trần Quang Lộc phổ nhạc năm 1972, sau này được các Ca sĩ Hồng Nhung, Thu Phương hát trở nên nổi tiếng. Nhạc Sĩ đươc giải thưởng, nhưng tên người sáng tác “lời”(thơ)thì bị “quên” một cách hữu ý ? Công luận (báo chí & dư luạn xã hội) đã nói về sự bội bạc của người bạn một thời bên xóm chài nhỏ ven bờ sông Hàn cùng anh !
Bài thơ nguyên tác như sau :
CÓ PHẢI EM MÙA THU HÀ NỘI Tháng tám mùa thu Lá khởi vàng em nhỉ Từ độ người đi thương nhớ âm thầm
Chiều vào thu nghe lời ru gió Nắng vàng lơ lửng ngoài hiên Mắt nai đen mùa thu Hà Nội Nghe lòng ấm lại tuổi phong sương
May mà có em cho đường phố vui May còn chút em trang sức sông Hồng Một sáng vào thu bềnh bồng hương cốm Đường Cổ Ngư xưa bắt bước phiêu bồng
thôi thì có em đời ta hy vọng Thôi thì có em sương khói môi mềm Có phải em mùa thu Hà Nội Nghe đâu đây lá ướt và mi xanh Nghe đâu đây hồn Trưng Vương sông Hát Lững thững Hồ Tây một dáng Kiều Có phải em mùa thu Hà Nội Nghìn năm sau níu bóng quay về
Phải nơi đây miền Thanh Nghệ Tĩnh Phải nơi đây Hồng Lĩnh-Ba vì Phải nơi đây núi Nùng sông Nhị Lớn đậy con người đất Tổ Hùng Vương Anh sẽ đi Cả nước Việt Nam yêu dấu Đẹp quê hương gặp lại tình người Bước nhỏ long lanh hồn nghệ sĩ Mơ Quang Trung vó ngựa biên thuỳ Ngày anh đi Nhất định phải có em đường cỏ thơm giong ruổi Sẽ ghé lại Thăng Long thăm Hoàng Thành- Văn Miếu chắc rêu phong đã in dấu bao ngày
Đã nghe bập bùng trống trận Ngày chiến thắng Điện Biên Sáng hồn lửa thiêng Xuôi quân về giữ quê hương Hôm nay mùa thu Gió về là lạ Bỗng xôn xao con tim lời lá Bỗng xôn xao rơi vàng tiếng gọi Lệ mừng gặp nhau ngàn phím dương cầm Có phải em mùa thu Hà Nội Ngày sang thu lót lá em nằm Bên trời xa sương tóc bay Hà Nội ơi em có hay Quê hương thần thoại hiển linh hồn sông núi Nắng thu muôn màu rực rỡ trong hồn anh.
Tiếp nối dòng nhạc Hà Phương, [dongnhacxua.com] trân trọng giới thiệu bản ‘Mưa đêm tỉnh nhỏ’ mà nhạc sỹ cùng sáng tác chung với nhạc sỹ Anh Việt Thanh. Bản này, cùng với ‘Mùa mưa đi qua’ đã gắn liền tên tuổi của Hà Phương (tức Du Uyên) với những cơn mưa buồn, như chính tâm sự của ông: “Tình yêu đầu đời là những kỷ niệm sâu sắc. Đó là những đêm trên sân khấu tôi đệm đàn cho nàng hát tình khúc do tôi sáng tác. Sau đó, hai đứa dìu nhau dưới những đêm mưa buồn nơi tỉnh lẻ, ánh đèn mờ ảo, phố vắng thưa người… Ôi nhớ sao là nhớ!”.
Mưa đêm tỉnh nhỏ (Hà Phương – Anh Việt Thanh). Ảnh: QuanNhacVang.com
HÀ PHƯƠNG: NHẠC SỸ CỦA MIỆT VƯỜN NAM BỘ (Nguồn: tác giả Trương Trọng Nghĩa đăng trên TienGiang.gov.vn)
Nhạc sỹ Hà Phương. Ảnh: TienGiang.gov.vn
Con hẻm ngoằn nghèo dưới chân Cầu Đỏ nằm trên Quốc lộ 60 (phường 6, thành phố Mỹ Tho) dẫn tôi vào một khu vườn nhỏ yên tĩnh, mát mẻ và trong lành. Ở đó, có một nhạc sĩ nhiều năm qua vẫn âm thầm sáng tác những ca khúc viết về quê hương, đất nước mang đậm âm hưởng dân ca Nam bộ. Đó chính là nhạc sĩ Hà Phương – tác giả của ca khúc “Bông điên điển” từng làm rung động biết bao trái tim, đặc biệt là với những người con xa xứ.
Nhạc sĩ Hà Phương tên thật là Dương Văn Lắm. Ông sinh năm 1938 tại xã Đăng Hưng Phước, huyện Chợ Gạo, Tiền Giang. Sinh ra trong một gia đình không có truyền thống hoạt động văn học nghệ thuật nhưng chính niềm đam mê là động lực mạnh mẽ giúp ông tìm đến với âm nhạc. Ca khúc đầu tay mang tên “Đường khuya” được nhạc sĩ Hà Phương viết năm ông 19 tuổi, bằng điệu tango nhẹ nhàng, chất chứa một nỗi buồn man mác: Đường về đêm nay buồn vắng, lạnh lùng cô đơn một bóng, nghe mưa buốt trong tâm hồn. Đường về không quen một bóng, tìm về trong hơi lửa ấm, thương ai nhớ ai vẫn còn… Chẳng rõ chàng thanh niên trẻ Dương Văn Lắm khi đó, vốn đã mang trong mình một trái tim đa sầu đa cảm hay sớm vận vào mình cái buồn của người nghệ sĩ mà đã viết lên những dòng nhạc đầy tâm trạng đến thế. Đường mưa rơi lạnh buốt, ngại ngùng chân ai nhịp bước mưa ơi thấu chăng nỗi buồn. Đường về khuya thêm lạnh giá, chuyện tình xưa chưa mờ xóa. Tâm tư gởi trao một người ấm lòng nhau tiếng cười.
Ngay từ sáng tác đầu tay, ông đã chọn cho mình bút danh Hà Phương. Cái tên ấy không gắn liền với những kỷ niệm nào đó mà là ước mơ được tung hoành rài đây mai đó, hà phương hà xứ cho thỏa chí tang bồng. Mà xem ra cuộc đời của ông cũng lắm phen sóng gió, nhiều lần phiêu bạt thật. Năm 07 tuổi, từ vùng quê nghèo khó, ông đã phải theo gia đình đến Mỹ Tho sinh sống. Và rồi ông đã trải qua thời thanh niên nơi Sài Gòn hoa lệ. Có lúc ông dạy nhạc ở Long An, đôi khi lại về Bến Tre – quê hương người bạn đời của ông, hay lang thang khắp nơi chỗ vài tháng, chỗ đôi năm để rồi hiện nay ông đã về xây nhà sống hẳn tại Mỹ Tho. Có lẽ nhờ đi nhiều nơi, gặp nhiều người nên ca khúc của ông hết sức sinh động, giàu hình ảnh và luôn phập phồng hơi thở cuộc sống.
Ông viết không nhiều nhưng khá chắc tay. Hơn 30 năm sáng tác nhạc, ông chỉ trình làng khoảng trên dưới 80 ca khúc. Phần lớn ca khúc của ông viết về đề tài tình yêu, số còn lại viết về vẻ đẹp con người và vùng đất Nam bộ.
Nhiều ca khúc trữ tình mang đậm âm hưởng dân ca của ông đã được các thế hệ thanh niên đón nhận và yêu thích như: Bông điên điển, Em về miệt thứ, Hương rừng Cà Mau… Ông tâm sự: “Từ những cánh đồng lúa mênh mông, từ dòng sông, bến nước – tôi bước chân vào đời với hành trang là tiếng ru ca dao ngọt ngào, sáu câu vọng cổ, nói thơ Bạc Liêu, điệu lý, câu hò thấm đẫm lòng tôi. Đó là những gì làm cho ca khúc quê hương trữ tình mang đậm sắc thái, âm hưởng dân ca của người đất phương Nam…” Trong ca khúc của mình, ông khéo léo đưa vào nhiều câu ca dao, nhiều câu thành ngữ khiến nó trở nên gần gũi, dễ nhớ và giàu tính biểu cảm. Cho đến nay, ông vẫn là một trong số ít những nhạc sĩ gặt hái được nhiều thành công khi khai thác mảng này.
Tình yêu trong nhạc của Hà Phương thường được ông diễn tả ở những cung bậc trong sáng, mộc mạc, đôi lúc trĩu nặng nỗi buồn nhưng không sa vào bế tắc, bi lụy. Trong bài “Con sông tình yêu” ông viết: Anh ở bên này sông nhà em bên bờ đó, hai đứa ngó mặt nhau. Bờ dừa nhớ hàng cau, lao xao chiều qua ngõ, cùng chung những chuyến đò. Ngày ngày qua sông tóc bềnh bồng theo gió, em có biết có hay anh ngất ngây say áo màu bà ba trắng rung rinh vờn hoa nắng nhẹ hôn gót chân son”. Hay như: Anh dìu em về, đường về nhà em qua phiến lá xanh xao. Con đường buồn heo hút mắt em sâu. Mưa nhạt mưa nhòa, mưa đổ mưa ngâu. (bài “Mùa mưa đi qua”).
Điều đặc biệt là có rất nhiều cơn mưa và nhiều loài hoa dân dã đã đi vào nhạc của ông, chẳng hạn như: Mùa mưa đi qua, Mưa qua phố vắng, Tình trong mưa, Mưa trên cuộc tình, Chiều mưa qua sông… và rồi: Bông lục bình, Bông điên điển, Dưới giàn hoa giấy, Hai sắc hoa tigôn, Bông mua tím,… Chính vì thế mà có người đã gọi ông là Nhạc sĩ của mưa và hoa. Rất nhiều tác phẩm đã viết về những cơn mưa nhưng đã có ai nỗi cô đơn trống vắng trong một đêm mưa gió nơi tỉnh nhỏ: Trời đổ mưa cho phố vắng mênh mông, khơi lòng cao nỗi nhớ. Trời làm mưa cho ướt áo em thơ, mưa rơi từ bao giờ .Và nơi đó những đêm trời mưa gió, thấu chăng người tỉnh nhỏ nuôi nấng trong đời mối tình thời xa ấy giờ đây đường hai lối mưa gió về buồn nào nguôi. (Mưa đêm tỉnh nhỏ). Có lần ông đã tâm sự: “Ấn tượng về tình yêu dang dở dưới cơn mưa cứ tái hiện trong tiềm thức mỗi khi tôi cầm bút và ông đàn sáng tác”. Chính những cảm xúc chân thành ấy đã mang đến cho người yêu nhạc niềm đồng cảm sâu sắc. Trong khi đó, những ca khúc viết về hoa của Hà Phương lại thường được gắn với hình ảnh những người con gái mang nhiều gian truân trắc trở trong cuộc sống. Ca khúc của ông luôn thấp thoáng bóng hình của những người phụ nữ Nam bộ dịu dàng, đằm thắm chịu thương chịu khó. Đó có thể là nỗi lòng của một cô gái Tiền Giang phải theo chồng xa xứ: Từ ngày xa đất Tiền Giang, em theo anh về xứ Cạnh Đền, muỗi kêu như sáo thổi, đĩa lềnh tựa bánh canh. Em yêu anh nên đành xa xứ, xuôi ghe chèo về miệt thứ Cà Mau… (Em về miệt thứ). Đó cũng có thể là một cô gái chèo đò mà tác giả đã gặp đâu đó trên bước đường phiêu bạt: Chiều năm xưa qua đò sang sông vắng. Nghiêng bóng dừa bờ trắng cỏ lau thưa. Áo bà ba em khua chèo vượt sóng. Má em hồng soi bóng nước Cửu Long (Chiều mưa qua sông). Đó còn là hình ảnh của bà mẹ quê tần tảo, cả một đời hy sinh cho chồng con: Tháng năm dài tóc mẹ hơi sương. Mái nhà tranh ấm lạnh tình trường. Sớm hôm đời tất tả ngược xuôi. Đổi buồn gian khổ thành vui, khi thấy con nên người. (Một thời của mẹ)
Nhạc sĩ Hà Phương được nhiều người nhớ đến với ca khúc “Bông điên điển”. Bài này được ông viết vào năm 1998 và ngay sau đó đã trở thành một bài hát được nhiều người yêu thích lúc bấy giờ. Với những ca từ gần gũi, dễ hiểu và đầy cảm xúc: Chồng gần không lấy, em lấy chồng xa. Giờ đây nhớ mẹ thương cha, còn đâu mà thong thả để về nhà thăm. Xa xăm nơi chốn bưng biền, ăn bông mà điên điển nghiêng mình nhớ đất quê, chồng xa em khó mà về, ca khúc này đã đánh động vào ký ức quê hương của mọi người và để lại những ấn tượng sâu sắc.
Ông thường phổ thơ vì thế mà hầu hết ca khúc của ông đều giàu chất thơ. Ông đã phổ thơ của rất nhiều tác giả như: Cao Vũ Huy Miên, Lê Ái Siêm, Võ Tấn Cường, Nguyễn Kim, Kim Quyên… Tôi rất thích những ca từ đầy khí khái trong bài “Hương rừng Cà Mau”được Hà Phương phổ từ thơ Sơn Nam: Từ bên này sông Tiền, qua bên kia sông Hậu. Mang theo chiếc độc huyền, điệu thơ Lục Vân Tiên. Với câu chữ: Kiến nghĩa bất vi vô dỏng giã tới Cà Mau Rạch Giá cất chòi đốt lửa giữa rừng thiêng.
Gần 30 năm gắn bó, nhạc sĩ Hà Phương cũng có nhiều ca khúc hay viết về vùng sông nước Tiền Giang. Ca khúc “Về Tiền Giang quê em” viết chung với Anh Việt Thanh là một trong số đó. Về Tiền Giang quê hương em nghe tiếng hò đêm trăng lộng gió. Về Gò Công thăm biển Đông, con tàu tôm cá đầy. Về Trung Lương khắp nẻo đường, thơm ngát màu xanh lúa đầy bông mùa vui đã đến. Với lưu luyến tình yêu hò lan trong gió chiều.
Năm 1996, Trung tâm Băng nhạc Vafaco đã phát hành ablum riêng của nhạc sĩ Hà Phương với tên gọi Hai sắc hoa tigôn. Album này gồm 10 tình khúc quen thuộc của ông. Như vậy, Hà Phương là một trong số ít nhạc sĩ ở Tiền Giang hiện nay đã phát hành album riêng.
Không thích phô trương, không thích chạy theo những trào lưu âm nhạc thời thượng, không thích tạo áp lực cho mình bằng số lượng tác phẩm, Hà Phương là thế, cứ lặng lẽ sống giữa cuộc đời bề bộn và âm thầm viết nhạc một cách tài tử. Ông giống như một người bộ hành không lấy gì làm vội vã, cứ thong thả dạo bước trên con đường nghệ thuật. Có thể nhạc của ông không chinh phục được số đông những bạn trẻ nghe nhạc hiện nay nhưng lại bắt mạch với những ai biết hướng tâm hồn về với quê hương, nguồn cội.
Về với dòng nhạc xưa, chúng tôi rất vui khi mỗi ngày có thêm một phát hiện thú vị. Hôm nay, thật tình cờ, [dongnhacxua.com] biết được nhạc sỹ Lê Trực của bản ‘Tiếng còi trong sương đêm’ cũng chính là nhạc sỹ Hoàng Việt của những ‘Tình ca’ hay ‘Lên ngàn’.
Nhạc sỹ Lê Trực (hay Hoàng Việt sau này) sinh ngày 26/10/1928 tại Chợ Lớn. Ông tên thật là Lê Chí Trực. Ông là con trai út và cũng là người con trai duy nhất trong một gia đình có 6 người con. Quê cha ở Bà Rịa và quê mẹ ở Cái Bè, tỉnh Tiềng Giang. Trước khi theo Việt Minh đi kháng chiến năm 19 tuổi, ông chơi nhạc ở Sài Gòn và lấy nghệ danh Lê Trực. Và có lẽ bản ‘Tiếng còi trong sương đêm’ là bản nhạc duy nhất còn lưu truyền với bút danh Lê Trực, được nhà xuất bản An Phú phát hành cuối năm 1953 đầu năm 1954.
Nhạc sỹ Lê Trực, tức Hoàng Việt. Ảnh: TheThaoVanHoa.vn
Thời gian rồi sẽ làm xóa nhòa đi ranh giới của chính kiến và bất đồng trong nhận thức nhưng chân giá trị của những bản nhạc bất hủ còn mãi. Qua bài viết này, [dongnhacxua.com] xin gởi cầu chúc đến linh hồn của nhạc sỹ Lê Trực – Hoàng Việt được bình an nơi chốn vĩnh hằng
Tiếng còi trong sương đêm (Lê Trực). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
[dongnhacxua.com] chúng tôi vừa có chuyến ghé thăm Phan Thiết và không khỏi bùi ngùi khi chứng kiến cảnh hoang tàn và xuống cấp của địa danh “Lầu Ông Hoàng”, nơi đón bước chân của thi sỹ Hàn Mặc Tử và cũng là nơi được lưu dấu gần 50 năm nay qua nhạc phẩm ‘Hàn Mặc Tử’ bất hủ của nhạc sỹ Trần Thiện Thanh. Cũng nằm trong tâm tình ghi lại những cảm xúc về nhạc xưa, chúng tôi xin mạn phép đăng lại bài viết của tác giả Duy Khiem đăng trên diễn đàn của Trung Tâm Asia
VIẾT VỀ CA KHÚC “HÀN MẶC TỬ” CỦA TRẦN THIỆN THANH (Nguồn: TrungTamAsia.com)
Bài hát Hàn Mặc Tử đã được nhạc sĩ Trần Thiện Thanh sáng tác vào năm 1965. Đây là một trong những ca khúc rất thành công của ông, khi kể về cuộc đời tình ái sự nghiệp của một thiên tài trong thi ca Việt Nam, là thi sĩ Hàn Mặc Tử (1912-1940).
Bài hát bắt đầu bằng các câu thơ của HMT, được ngâm lên cho đoạn dạo đầu (prélude):
“Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Trăng nằm im trên cành liễu đợi chờ
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Chẳng bán tình duyên ước hẹn hò ”
Sau đó thì tác giả chuyển qua điệu nhạc Bolero :
“Đường lên dốc đá, nửa đêm trăng tà nhớ câu chuyện xưa
LẦU ÔNG HOÀNG đó, thuở nao chân HÀN MẶC TỬ đã qua.
Ánh trăng treo nghiêng-nghiêng bờ cát dài thêm hoang vắng
Tiếng chim kêu đau thương như nức nở dưới trời sương
Lá rơi rơi đâu đây sao cứ ngỡ bước chân người
Tìm về giữa đêm buồn …
“Đường lên dốc đá, nhớ xưa hai người đã một lần đến
Tình yêu vừa chớm, xót xa cho chàng cuộc sống phế nhân
Tiếc thay cho thân trai, một nửa đời chưa qua hết
Trách thay cho tơ duyên, chưa thắm nồng đã vội tan
Hồn ngất ngư điên cuồng cho trời đất cũng tan thương
Mà khổ đau niềm riêng …”
Bài hát “Hàn Mặc Tử” này đã trở nên thật nổi tiếng ở Việt Nam kể từ lúc được ca sĩ Trúc Mai trình bày ở Đại nhạc hội tại rạp hát Thanh Bình, Sài Gòn vào năm 1965. Sau đó bài hát này được phổ biến rộng rãi khắp mọi nơi cho đến tận ngày hôm nay. Đi đâu cũng nghe người ta hát “Ai mua trăng, tôi bán trăng cho…” từ nhà hàng, quán cà-phê, bến xe đò, bến phà, các xe bán hàng rong khắp hang cùng ngõ hẻm. Ca sĩ Trúc Mai đã bắt đầu đi hát từ năm 1959. Cô là một trong bốn ngôi sao của phòng trà Hòa Bình, gồm Bạch Yến, Bích Chiêu (chị của Khánh Hà), Thùy Nhiên và Trúc Mai. Giọng hát của cô rất ngọt ngào, đầm ấm. Cô diễn tả bài hát thật nhẹ nhàng, thoải mái như ru nhè nhẹ vào tai người nghe. Nhờ vậy mà Trúc Mai đã tiếp tục sự nghiệp ca hát của cô trong hơn ba mươi năm. Sau một thời gian dài vắng bóng, cô đã tái ngộ khán giả khắp nơi ở chương trình Paris By Night 78 “Đường Xưa” khi song ca với Phương Hồng Quế trong liên khúc “Giọt lệ đài trang”. Đến với chương trình Asia 50 để tưởng niệm Nhật Trường, ca sĩ Trúc Mai sẽ kể lại các kỷ niệm vui buồn của cô trong những năm trình diễn bài hát Hàn Mặc Tử này. Nhưng hôm nay cô không hát lại ca khúc này, mà để cho giọng ca trẻ Y Phụng ngợi ca Hàn Mặc Tử. Trước đây cũng có vài ca sĩ ở hải ngoại đã hát bài “Hàn Mặc Tử” này. Trong đó có cô ca sĩ mang hai dòng máu Việt-Mỹ là Thúy Hằng đã hát bài này đúng 6.41 phút trong CD “Thúy Hằng 3: Tình Thiên Thu” do Mây Productions sản xuất năm 1998.
Cuộc đời ngắn ngũi 28 năm của thi sĩ Hàn Mặc Tử đã được không biết bao nhiêu người nhắc đến. Từ những bài báo, tiểu thuyết, cải lương, thoại kịch, phim truyện và hiện nay ở các đài truyền hình bên Việt Nam cũng đang cho trình chiếu một bộ phim truyện vài chục tập về cuộc đời Hàn Mặc Tử. Ông đúng là một thiên tài bất hạnh trong làng thi ca Việt Nam.
Tên thật của ông là Nguyễn Trọng Trí, sanh tại làng Lệ Mỹ , Đồng Hới, Quảng Trị vào ngày 22 tháng 9 năm 1912, trong một gia đình theo đạo Công giáo. Vóc mình ốm yếu, tính tình ông hiền từ, giản dị, hiếu học và thích giao du bè bạn trong lĩnh vực văn thơ. Thân phụ ông làm thông ngôn, ký lục nên thường di chuyển nhiều nơi, nhiều nhiệm sở. Vì vậy, Hàn Mặc Tử cũng đã theo học ở nhiều trường khác nhau như Sa Kỳ (1920), Qui Nhơn, Bồng Sơn (1921-1923), Pellerin Huế (1926). Năm 1930 thì Hàn Mặc Tử thôi học vào Qui Nhơn sống với mẫu thân và năm 1932 thì ông xin được việc làm ở sở Đạc Điền tại đó. Trong thời gian này ông có yêu một thiếu nữ tên là Hoàng Cúc ở gần nhà, nhưng mộng ước không thành. Người yêu theo chồng ra Huế sống. Buồn tình, năm 1935 HMT xin thôi việc vào Sài Gòn viết báo. Từ nhỏ Hàn Mặc Tử đã làm thơ đăng báo khắp nơi và ký các bút hiệu như Minh Duệ Thị, Phong Trần, Lệ Thanh, Hàn Mạc Tử (người ở sau tấm rèm lạnh: hàn là lạnh, mạc là bức rèm) và cuối cùng là Hàn Mặc Tử (anh chàng với bút mực: hàn là cây viết, mặc là mực) .
Rất nhiều người vẫn thắc mắc là Hàn Mặc Tử có tất cả bao nhiêu người yêu chính thức?
Có người từng nói rằng “thi nhân muôn đời luôn luôn là giống đa tình”, nên Hàn Mặc Tử cũng có rất nhiều người yêu và cũng có rất nhiều độc giả yêu thơ của chàng, viết thư làm quen. Trong số đó có Mộng Cầm (tức Huỳnh Thị Nghệ) là một thiếu nữ xinh đẹp từ Quảng Ngải vào và trọ học ở nhà người cậu nơi tỉnh Phan Thiết. Sau nhiều lần trao đổi thơ từ, thì họ cùng hẹn nhau để gặp mặt. Cuối tuần, Hàn Mặc Tử từ Sài Gòn đi Phan Thiết bằng xe lửa để tìm thăm Mộng Cầm. Họ đã dạo chơi khắp các thắng cảnh của Phan Thiết, trong đó có “Lầu Ông Hoàng”. Trần Thiện Thanh đã viết: “Lầu Ông Hoàng đó, thuở nao chân HMT đã qua“. Ai đã ở tỉnh Phan Thiết thì chắc cũng đã có lần nghe nhắc đến Lầu Ông Hoàng. Đó là một dinh thự to lớn, nguy nga tráng lệ, xung quanh có vườn tược, cây cảnh rất xinh đẹp và nằm trên một ngọn đồi nhìn ra biển xanh. Lâu đài này do một ông hoàng (công tước) người Pháp tên là De Montpensier mua khu đất này và xây cất lên vào năm 1911 để làm nơi nghỉ hè, vui chơi cho gia đình ông. Năm 1917 thì một doanh nhân Pháp mua lại để làm khách sạn cho du khách thuê. (Trong thời chiến tranh sau này, khu Lầu Ông Hoàng này đã bị bom đạn phá hũy hoàn toàn, nay chỉ còn cái nền cao mà thôi). Thuở xa xưa đó, những cặp tình nhân thường hẹn hò nhau đến khu vực này để ngắm cảnh và tâm tình với nhau nơi các băng ghế đá xung quanh vườn, nhứt là trong những đêm trăng sáng. Qua Mộng Cầm, HMT làm quen với cậu của nàng là Thi sĩ Bích Khê (1916-1946) và hai chàng thi sĩ này trở nên thân nhau như tri kỷ. Cuối tuần nào HMT cũng tới ở trọ nhà Bích Khê và hẹn gặp Mộng Cầm (Mộng Cầm ở trọ nhà một người cậu khác). Thời gian đó, không rõ vì lý do gì mà HMT bị bịnh phong cùi (leprosy), hai vành tai ửng đỏ, ngứa ngái khắp nơi. Tuy vẫn thơ từ qua lại, nhưng Mộng Cầm lãng tránh dần thi sĩ, ít khi hò hẹn với nhau. Hàn Mặc Tử âm thầm tìm thầy chạy chửa thuốc men, bịnh tình cũng thuyên giảm dần dần, và thi sĩ vẫn tiếp tục làm thơ, viết báo ở Sài Gòn.
Nhưng qua năm 1938, căn bịnh quái ác này trở nên nặng hơn, nên thi sĩ bèn quay về Qui Nhơn thuê một căn nhà nhỏ trên đồi, sống biệt lập cách xa thành phố, tuyệt giao với tất cả bạn bè. Hàng ngày có một tiểu đồng về nhà mẹ của HMT gần đó lãnh cơm nước, thuốc men đem đến cho chàng. Trần Thiện Thanh đã viết:
“HÀN MẶC TỬ xuôi về quê cũ dấu thân nơi nhà hoang,
MỘNG CẦM hởi thôi đừng thương tiếc tủi cho nhau mà thôi,
Tình đã lỡ xin một câu hứa kiếp sau ta trọn đôi,
Còn gì nữa thân tàn xin để một mình mình đơn côi.”
Từ khi phát bịnh, cơ thể đau nhức đến phát điên, nhứt là vào những đêm trăng sáng. Hàn Mặc Tử lại càng làm thơ hay hơn, như những câu thơ mà Trần Thiện Thanh đã phổ nhạc:
“Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng! Trăng! Trăng! Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Không bán đoàn viên, ước hẹn hò
Bao giờ đậu trạng, vinh quy đã
Anh lại đây tôi thối chữ thơ
Không, không, không ! Tôi chẳng bán hòn trăng
Tôi giả đò chơi, anh tưởng rằng
Tôi nói thiệt là anh dại quá
Trăng Vàng Trăng Ngọc bán sao đang ?”
Có đêm ông nằm mơ thấy Đức Mẹ hiện về, nên ông đã viết bài “Thánh nữ Đồng Trinh” để tạ ơn:
“Maria! Linh hồn con ớn lạnh
Run như run thần tử thấy long nhan
Run như run hơi thở chạm tơ vàng
Nhưng lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến…
…
Tấu lạy Bà, lạy Bà đầy ơn phước
Cho tình tôi nguyên vẹn tợ trăng rằm Thơ trong trắng như một khối băng tâm
Luôn luôn reo trong hồn trong mạch máu
Cho vỡ lở cả muôn ngàn tinh đẩu
Cho đê mê âm nhạc và thanh hương
…
Sẽ ngây ngất bởi chưng thơ đầy ứ
Nguồn Thiêng liêng yêu chuộng Mẹ Sầu Bi ..”
Trong lúc cô đơn, tuyệt vọng chán chường, thi sĩ lại nhận được tin Mộng Cầm đi lấy chồng, nên HMT lại càng đau khổ hơn:
“Trời hởi nhờ ai cho khỏi đói
Gió trăng có sẳn làm sao ăn ?
Làm sao giết được người trong mộng
Để trả thù duyên kiếp phụ phàng ?”
Trần Thiện Thanh đã viết lời ca:
“Tìm vào cô đơn, đất Qui nhơn gầy đón chân chàng đến.
Người xưa nào biết chốn xưa ngập đường pháo cưới kết hoa,
Chốn hoang liêu tiêu sơ HÀN âm thầm nghe trăng vỡ .”
Hình như cái bịnh phong cùi này thường làm cho Hàn Mặc Tử đau đớn nhiều hơn trong những đêm có trăng. Thi sĩ đã thức trọn đêm để làm thơ:
Hôm nay có một nửa trăng thôi
Một nửa trăng ai cắn vỡ rồi
Ta nhớ mình xa thương đứt ruột
Gió làm nên tội buổi chia phôi …
Có lúc thi sĩ Bích Khê ghé thăm, thấy HMT buồn, nên giới thiệu chàng làm quen với người chị của BK là Lê Thị Ngọc Sương (tức là dì ruột của Mộng Cầm) để hai người thơ từ qua lại. HMT đã làm liền một bài thơ sau khi nhìn vào tấm ảnh của Ngọc Sương:
“Ta đề chữ NGỌC trên tàu chuối
SƯƠNG ở cung thiềm nhỏ chẳng thôi
Tình ta khuấy mãi không thành khối
Nư giận đòi phen cắn phải môi”
Đây chỉ là một mối tình đơn phương, vì Ngọc Sương không hề yêu HMT nhưng cô cũng khiến thi sĩ sáng tác được nhiều bài thơ hay. Lúc đó lại có nữ thi sĩ Mai Đình (tên thật Lê Thị Mai) yêu HMT tha thiết, tình nguyện đến ở bên chàng săn sóc, lo thuốc men. Nhưng thi sĩ đã từ chối và chỉ tiếp chuyện với cô được vài lần. Tuy vậy HMT cũng đã làm những bài thơ trong đó có câu:
“Đây MAI ĐÌNH tiên nữ ở Vu Sơn
Đem mộng xuống gieo vào muôn sóng mắt …
Nàng, ôm nàng hai tay ta ghì chặt
Cả bài thơ êm mát lạ lùng thay
Ta là người uống muôn hận sầu cay
Nàng là mật của muôn tuần trăng mật …”
Thơ từ qua lại với Mai Đình trong hai năm (1938-1939) rồi HMT tuyệt giao. Có lúc tưởng như bớt bịnh, bạn bè đến thăm, lại mang thơ độc giả ái mộ cho HMT xem (1940). Trong đó có một nữ sinh trung học tên Thương Thương đã làm cho HMT cảm động, và thi sĩ lại tìm được tình yêu trong mộng, như:
“Sầu lên cho tới ngàn khơi
Ai lau ráo lệ cho lời nói ra
chiều nay tàn tạ hồn hoa
nhớ THƯƠNG THƯƠNG quá, xót xa tâm bào …”
Gần cuối năm 1940, căn bịnh của HMT trở nên nặng hơn. Gia đình đành phải đưa ông vào nhà thương phung cùi Qui Hòa, cách Qui Nhơn 5 cây số, nơi có các dì phước người Pháp săn sóc cho bịnh nhân. Lúc này thi sĩ đã bớt điên loạn và dần dần chấp nhận cái chết gần kề. Ông đã mơ ước:
“Một mai kia ở bên khe nước ngọc
Với sao sương, anh nằm chết như trăng
Không tìm thấy nàng tiên mô đến khóc
Đến hôn anh và rửa vết thương tâm !”
Ông luôn luôn nhớ đến Phan Thiết, nhớ đến Mộng Cầm và những kỷ niệm thời hoa bướm ngày xưa. Thi sĩ đã viết những câu thơ dưới đây như những lời trăn trối sau cùng trong đớn đau tuyệt vọng:
‘… Rồi ngây dại nhờ thất tinh chỉ hướng
Ta lang thang tìm tới chốn Lầu Trăng
Lầu Ông-Hoàng, người thiên hạ đồn vang
Nơi đã khóc, đã yêu thương tha thiết
Ôi ! Trời ơi ! là Phan Thiết ! Phan Thiết !
Mà tang thương còn lại mảnh sao rơi
Ta đến nơi : nàng ấy vắng lâu rồi !
Nghĩa là chết từ muôn trăng thế kỷ !
Trăng vàng ngọc, trăng ân tình, chưa phỉ
Ta nhìn trăng khôn xiết ngậm ngùi trăng
Ta vãi tung thơ lên tận cung Hằng
Thơ phép tắc bỗng kêu rên thống thiết.
Hỡi Phan Thiết ! Phan Thiết !
Mi là nơi ta chôn hận nghìn thu
Mi là nơi ta sầu muộn ngất ngư !”
Rời túp lều hoang không đầy hai tháng, thì Hàn Mặc Tử yếu dần và tạ thế tại nhà thương Qui Hòa, ngày 11 tháng 11 năm 1940. Được tin ông mất, các tờ báo trên khắp nước đã viết bài, đăng tin, ra số đặc biệt tưởng niệm thi sĩ tài hoa nhưng bất hạnh này. Bạn bè, người yêu, độc giả khắp nơi đều thương tiếc, nhưng không một ai đến đưa đám tang thi sĩ HMT. Trần Thiện Thanh đã kết thúc bài hát Hàn Mặc Tử bằng:
“Xót thương thân bơ vơ cho đến một buổi chiều kia
Trời đất như quay cuồng khi hồn phách vút lên cao
MẶC TỬ nay còn đâu !
Khi sáng tác ca khúc “Hàn Mặc Tử” này cách đây đúng 40 năm (1965-2005), có lẽ nhạc sĩ Trần Thiện Thanh không ngờ rằng sau này cuộc đời ông cũng có nhiều điểm giống như thi sĩ tài hoa bạc mệnh này. Nơi tỉnh nhà Phan Thiết, từ nhỏ Trần Thiện Thanh đã cùng bạn bè dạo chơi ở những nơi mà ngày xưa thi sĩ Hàn Mặc Tử và Mộng Cầm từng in dấu. Nên ông đã viết: “Đường lên dốc đá, nửa đêm trăng tà nhớ câu chuyện xưa, Lầu ông Hoàng đó, thuở nao chân HMT đã qua”.
Vào Sài Gòn lập nghiệp, nhạc sĩ Trần Thiện Thanh đã mang theo ông những kỷ niệm này và sáng tác nên “Hàn Mặc Tử”. Trong khoảng thời gian bắt đầu ca hát và viết nhạc từ năm 1958 cho đến năm 1975, ca sĩ Nhật Trường-Trần Thiện Thanh đã cống hiến cho đời những lời ca tiếng nhạc thật tuyệt vời. Tên tuổi và danh vọng của ông đã sáng rực lên khắp mọi nơi. Đã có không biết bao nhiêu thiếu nữ, khán giả ở mọi lứa tuổi yêu nhạc và yêu thương ông tha thiết. Nhưng kể từ sau năm 1975, thì sự nghiệp của ông dần dần đi xuống, kể cả khi ra hải ngoại, những sáng tác mới của ông cũng không còn xuất sắc được như ngày xưa. Cuối cùng thì ông lại mắc phải một chứng bịnh nan y là ung thư phổi. Những tháng ngày cuối cùng của ông thật là cô đơn, hiu quạnh. Đâu còn thấy lại “ánh đèn sân khấu”, đâu còn thấy lại những khán giả thân thương, những bạn bè xưa, người yêu cũ. Ngay cả bà mẹ già 82 tuổi và cô em gái Như Thủy trong ban Tứ ca Nhật Trường ngày xưa, những đứa con, đứa cháu của ông vẫn còn ở bên Việt Nam nghìn trùng xa cách. Những tuần lễ sau cùng, khi đã tuyệt vọng, ông không chịu nằm trong bịnh viện mà muốn trở về nằm nghỉ nơi nhà riêng. Bên cạnh ông trong giờ hấp hối chỉ có người vợ sau là ca sĩ Mỹ Lan và đứa con trai út mới vừa 3 tuổi, tên là Trần Thiện Anh Chí. Ông đã ra đi trong âm thầm lặng lẽ sau mấy tháng chịu nhiều đau đớn, dày vò vì căn bịnh quái ác này. Cho đến ngày 13-5-2005 thì “trời đất như quay cuồng, khi hồn phách vút lên cao”. Trần Thiện Thanh đã thực sự vĩnh biệt chúng ta khi vừa đúng 62 tuổi đời, là cái tuổi vẫn còn rất trẻ trên đất tạm dung Hoa Kỳ.
*Tài liệu tham khảo để viết bài này:
-Tuyển tập nhạc “Bao giờ anh quên” (25 tác phẩm TTT)
-CD nhạc Thúy Hằng 3 : “Tình Thiên Thu”, Mây Productions, USA, 1998
-Theo chân những tiếng hát, Hồ Trường An, Hoa Kỳ, 1998
-Hàn Mạc Tử (thân thế & thi văn), Trần Thanh Mại, Tân Việt, 1957
-Đôi nét về Hàn Mặc Tử, hồi ký Quách Tấn, Quê Mẹ, Paris, 1988
-Văn Thi sĩ tiền chiến, Nguyễn Vỹ, Khai Trí, Saigon, 1969
-Thơ Hàn Mặc Tử, Sở văn hóa thông tin Nghĩa Bình, 1988
-Website : http:// vietlove.com (viết về Nhật Trường).
-Website : http:// phanthiet.com (di tích, thắng cảnh)
Trong một bài viết về nhạc phẩm ‘Thà Như Giọt Mưa’ của Phạm Duy phổ thơ Nguyễn Tất Nhiên, [dongnhacxua.com] có đề cập đến một nguyên mẫu của ‘Duyên’ ngoài đời là cô Bùi Thị Duyên, cựu học sinh Ngô Quyền, Biên Hòa ngày xưa. Hôm nay chúng tôi lại có cái ‘duyên’ được thêm thông tin về năm tháng Nguyễn Tất Nhiên còn đi học và nhất là biết được ai là “Cô bắc kỳ nho nhỏ”, một sáng tác khác mà Phạm Duy cũng phổ thơ của Nguyễn Tất Nhiên.
Cô bắc kỳ nho nhỏ. Phạm Duy – Nguyễn Tất Nhiên. Ảnh: QuanNhacVang.com
MỘT CÁI NHÌN KHÁM PHÁ MỚI VỀ NGUYỄN TẤT NHIÊN (Nguồn: tác giả Người Xứ Bưởi đăng trên Ngo-Quyen.org)
Nhớ lại mùa hè cách nay đúng 36 năm, giới trẻ sinh viên học sinh VN có làm Đại Hội Thể Thao Âu Châu ngay tại thành phố Stuttgart / xứ Đức. Đêm về khuya, một nhóm nhỏ gốc Hướng Đạo có sáng kiến làm lửa trại “bỏ túi” để sinh hoạt làm quen với nhau. Tới màn tự giới thiệu, người viết vừa mới nói là dân Biên Hòa, thế là bị cắt lời ngay bằng lao nhao những lời “hỏi thăm“:
Học trường Ngô Quyền phải không ?
Bưởi Biên Hòa ngon lắm đó!
Nhà Thương Điên cũng “hết xẩy” luôn!
Một cô khá “mi nhon” liền tự nhiên đứng lên hát một đoạn bản nhạc Thà Như Giọt Mưa và sau đó “lên mặt” hỏi trỏng có quen biết Nguyễn Tất Nhiên không và “dung nhan” của Cô Bắc kỳ nho nhỏ tên Duyên ra sao? Lúc đó trước mặt bạn bè làm sao tôi dám “can đảm tiết lộ” đã học cùng khóa 8 với Nguyễn Tất Nhiên tại trường Ngô Quyền, học cùng thời bậc tiểu học với Duyên và nhứt là trước năm 1975, gia đình ba má tôi & ba má Duyên là láng giềng ở cách nhau một căn nhà trong một “xóm Bắc kỳ nho nhỏ” tại cuối đường dốc tòa án Lê Văn Duyệt (sau đổi là Bùi Văn Hòa). Tại trong bụng sợ mang tiếng “thấy sang bắt quàng làm họ” nên đành nín khe chịu thua luôn.
Câu chuyện tình cờ này cho thấy thơ Nguyễn Tất Nhiên được giới trẻ lúc đó biết rất nhiều và đôi khi đã biến thành biểu tượng đặc biệt cho tỉnh Biên Hòa & trường Ngô Quyền. Bởi nổi tiếng như vậy nên đã có nhiều huyền thoại không phù hợp sự thực được đưa ra. Trong văn học tại các quốc gia tiền tiến Tây Phương thì họ giải quyết rốt ráo không chấp nhận những chi tiết huyền thoại sai sự thực trong tiểu sử tác giả liên hệ. Cho nên hồi năm 2007, người viết có đề nghị trang web trường Ngô Quyền mở rộng & thêm mục Thư Quán Nguyễn Tất Nhiên để lưu trữ toàn bộ di sản văn học liên hệ và làm sáng tỏ những chi tiết không đúng sự thực có liên quan đến nhà thơ nổi tiếng này. Từ đó trang web trường Ngô Quyền có thêm mục Thư Quán Nguyễn Tất Nhiên và được phụ trách bởi nhà thơ Nguyễn Thị Minh Thủy (cũng là người bạn đời hôn phối duy nhứt của Nguyễn Tất Nhiên). Nhờ vậy, trong đó đã xuất phát những cải chính cấp thời bảo vệ hữu hiệu danh dự cho Nguyễn Tất Nhiên, khi nhà thơ Du Tư Lê vào năm 2010 đã viết báo nói xấu & mạo nhận là người nghĩ ra giùm bút hiệu cho Nguyễn Tất Nhiên.
Trong khuôn khổ giới hạn, bài viết ở đây bàn đến vài điểm trong Một cái nhìn khám phá mới về Nguyễn Tất Nhiên.
1) Ai mới chính đích thực là “Cô Bắc kỳ nho nhỏ” của Nguyễn Tất Nhiên?
Xứ bưởi Biên Hòa nổi tiếng là cái nôi thơ văn miền Nam. Được biết nhiều nhứt trong giới làm thơ tại đây từ trước đến nay chính là người học trò Nguyễn Tất Nhiên với “Cô Bắc kỳ nho nhỏ“:
Đôi mắt tròn, đen, như búp bế
Cô đã nhìn anh rất… Bắc kỳ
Anh vái trời cho cô dễ dạy
Để anh đừng uổng mớ tình si
…..
Anh chắc rằng cô sinh trong Nam
Cảnh tượng di cư chắc lạ lùng
Thuở còn học ở Ngô Quyền, đám học trò chúng tôi may mắn được nhiều Thầy Cô thiệt giỏi như Thầy Đoàn Viết Biên, Cô Đặng Thị Trí, Cô Vương Chân Phương, Cô Đinh Thị Hòa… “truyền nghề” cho môn Quốc Văn. Trong đó có phương pháp tổng hợp để tìm thấy những sự thực liên quan đến tác giả qua:
a) phân tích kỹ mọi dữ kiện chứa đựng trong các tác phẩm.
b) sưu tầm tin tức qua những cá nhân thân cận & quen biết với tác giả.
c) nghiên cứu về hoàn cảnh của tác giả, sẽ thấy tác phẩm ra đời với hậu ý gì?
Trong lãnh vực nghiên cứu văn học, đôi khi một vài dữ kiện tuy nhỏ nhoi trong tác phẩm lại dẫn đến khám phá sự thực bất ngờ. Điển hình là trong dự án chuyển dịch bộ Luật Hồng Đức (tên chính thức là Quốc Triều Hình Luật) của Đại học Harvard vào năm 1984 quy tụ nhiều học giả Việt Mỹ đã tình cờ khám phá ra tác giả đích thực soạn ra bộ luật nổi tiếng này chính là thiên tài Nguyễn Trãi (cũng là tác giả của Bình Ngô Đại Cáo). Trong đó, học giả Nguyễn Ngọc Huy đã có sáng kiến nghiên cứu kỹ vấn đề kỵ húy (kiêng kỵ tên húy của vua) để phát giác ra bản văn bộ Luật Hồng Đức chắc chắn được soạn trước thời vua Lê Thánh Tôn (Hồng Đức) lúc mà thiên tài Nguyễn Trãi còn sống chịu trách nhiệm điều hành.
Áp dụng vào trường hợp Nguyễn Tất Nhiên, chúng tôi đã phát hiện thấy là phần lớn các bài viết và dư luận đã… lầm và sai, khi cho rằng nhân vật “Cô Bắc kỳ nho nhỏ ” chính là cô bạn học cùng lớp tên Duyên (Bùi Thị Duyên). Bởi lẽ, họ không nắm vững những chi tiết liên hệ:
a) Nguyễn Hoàng Hải (tên thật của nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên) và Duyên học cùng lớp cùng sinh năm Nhâm Thìn 1952, mà cuộc di cư xảy vào năm 1954. Như vậy quá rõ ràng Nguyễn Tất Nhiên muốn ám chỉ vào một người con gái khác trẻ tuổi hơn nhiều (sinh sau năm di cư 1954!) và khi muốn bắt chuyện làm quen vào năm 1973 bèn đong đưa với câu “Anh chắc rằng cô sinh trong Nam. Cảnh tượng di cư chắc lạ lùng“. Điều này không gì lạ, vì thi sĩ vốn nòi đa tình, nên trong tác phẩm Nguyễn Tất Nhiên xuất hiện nhiều bóng hồng khác nữa chớ không phải chỉ có “một người mang tên Duyên“.
b) Trong bài phỏng vấn tuần báo Tuổi Ngọc số 141 vào ngày 5.8.1974, Nguyễn Tất Nhiên đã trả lời gián tiếp xác nhận chuyện này:
Tuổi Ngọc: Cuối cùng, Nguyễn Tất Nhiên, bạn còn muốn nói thêm gì chăng?
Nguyễn Tất Nhiên: Có lẽ, nên thôi. Bởi tôi sắp sửa đề cập tới nàng con gái khác, trong bài “Hai năm tình lận đận” . Nàng con gái khác nữa, trong bài “Cô Bắc kỳ nho nhỏ”.
c) Nguyễn Tất Nhiên đã tả điểm đặc biệt về Cô Bắc kỳ nho nhỏ như sau:
Cô Bắc kỳ nho nhỏ
tóc “demi-garcon”
cười ngây thơ hết nụ
…..
mắt như trời bao dung
Kiểu tóc “demi-garcon” đặc biệt này không thể tìm thấy ở hình ảnh thuở xưa ở các nhân vật nữ mà Nguyễn Tất Nhiên từng theo đuổi làm thơ gửi tặng như chs-NQ Bùi Thị Duyên (tóc xõa đến bờ vai), nhà thơ Nguyễn Thị Minh Thủy (tóc thắt bím)… (xem hình ảnh phía dưới)
Phân tích trên đã được đăng tải trên Tuyển Tập Ngô Quyền năm 2006 và lúc đó thực sự chúng tôi không biết rõ tên tuổi đích thực của Cô Bắc kỳ nho nhỏ, bởi lẽ chúng tôi tiếp tục qua Âu Châu du học từ năm 1971, nên không rõ nhiều về “diễn tiến” tại Biên Hòa.
Dĩ nhiên đã gợi trong lòng “tò mò” vô cùng khi thấy Nguyễn Tất Nhiên vào năm 1972 làm bài thơ Duyên Của Tình Ta Con Gái Bắc với những lời lẽ “nặng nề” chê gái Bắc “nhớ duyên dáng ngây thơ… mà xảo quyệt” . Rồi thật bất ngờ chỉ một năm sau 1973, Nguyễn Tất Nhiên lại gặp một nàng con gái bắc khác nhỏ tuổi hơn nhiều, để sáng tác được bài thơ độc đáo Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ . Vậy, nhân vật nữ “đặc biệt” này là ai đã có sức mạnh ghê gớm khiến Nguyễn Tất Nhiên chạy theo “mê tình” đến nổi gạt bỏ mọi thành kiến xấu “gái bắc” trước đó một năm.
Để giải đáp được ẩn số này, chúng tôi đành sưu tầm tin tức qua những cá nhân thân cận & quen biết với tác giả. Trong đó có nhà thơ Nguyễn Thị Minh Thủy, nhà thơ Tưởng Dung (bạn học thân thiết nhứt của Minh Thủy), Cô giáo Ma Thị Ngọc Huệ và một số bạn bè thân ở trong & ngoài nước. Rất ngạc nhiên là phần lớn họ đều biết rõ chuyện nội bộ này và xác nhận cho biết Cô Bắc kỳ nho nhỏ với tóc “demi-garcon” chính là một nữ sinh trường Ngô Quyền tên là Hoàng Thị Kim Oanh. Nên nhớ Nguyễn Tất Nhiên cũng từng sáng tác một bài thơ có tựa đề “Oanh“, mà nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc thành bài Hãy Yêu Chàng:
Oanh
Hãy yêu chàng, yêu chàng như yêu dòng sông
Ngậm ánh trăng non bàng bạc đêm rằm
…..
Chơi giỡn tung tăng hai vạt áo dài
Gió đưa mây về, trời mưa, bong bóng vỡ
Từ Biên Hòa, bạn bè lại cho biết rõ thêm chi tiết vềchs-NQ Hoàng Thị Kim Oanh, sinh năm 1955 (học khóa 12 trường Ngô Quyền / Biên Hòa, sống khép kín, hiền lành, ít giao tiếp và rất xinh), có người chị tên là Hoàng Thị Thúy Liễu (Ngô Quyền khóa 8) và người chị khác nổi tiếng hơn tên là Hoàng Thị Lý (Ngô Quyền khóa 5, còn được gọi là Chị Lý Ca Dao vì có quán cà phê Ca Dao tại Ngã Ba Vườn Mít và là nơi tụ tập giới học sinh NQ trong đó có cả Nguyễn Tất Nhiên). Hiện nay, họ vẫn còn cư ngụ ở địa chỉ cũ tại Biên Hòa. Kim Oanh nhỏ hơn Nguyễn Tất Nhiên đến 3 tuổi, chính vì thế thân mẫu của nhà thơ mới nhận xét là “còn nhỏ dại“. Sự thực này mới giải thích thỏa đáng toàn bộ bài thơ tâm sự sau đây của Nguyễn Tất Nhiên:
Chỗ tôi
tôi có chỉ cho gia đình
người tôi yêu
là một nàng con gái bắc
mẹ tôi hai lần nhìn
dáng em đi
và nói nó còn nhỏ dại
không hiểu nó thương mày chỗ nào
tôi trả lời chỗ con làm thi sĩ
tuy nhiên tôi vừa đau nhói trái tim
vì hiểu rằng
muôn đời
em vẫn ngó tôi nửa mắt
có gì đâu
thiên hạ lâu nay cứ nhạo báng tôi khùng!
Có lẽ đây là bài thơ “duy nhứt” của Nguyễn Tất Nhiên đã “lột trần” mặc cảm tâm lý: rất muốn “yêu” con gái Bắc dù trong lòng biết rõ chỉ “đơn phương” mà thôi và chỉ được họ “ngó nửa con mắt“. Kể cả Cô Bắc kỳ nho nhỏ mang tên Kim Oanh!.
2) Nguyễn Tất Nhiên có thực sự bị bịnh điên hay không ?
Một số dư luận cho rằng Nguyễn Tất Nhiên là một nhà thơ điên.
a) Về phía Nhạc sĩ Phạm Duy có cho biết:
“Đi qua đời tôi có khá nhiều thi nhân thuộc nhiều thế hệ, đa số đều như tôi, đều khá hồn nhiên, nghĩa là có tí máu điên. Nhưng trong làng thơ Việt Nam, có ba nhà thơ hồn nhiên nhất, đó là Nguyễn Ngu Ý, Bùi Giáng, và Nguyễn Tất Nhiên… cả ba vị đều đã từng là thượng khách của Dưỡng trí Viện Biên Hòa, nơi tôi đã có lần đến thăm một trong ba vị đó..”
b) Còn về phía Giáo sư Nguyễn văn Lục trong bài viết Hãy Để Thi Ca Và Âm Nhạc Cùng Cất Cánh Bay Lên đưa ra nhận xét :
“Số phận dành cho thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên cũng là số phận dành cho nhiều nhà thơ nổi tiếng khác. Hình như bệnh tật đi đôi với tài năng, ngay cả trường hợp đối với những người mất trí. Theo những thí nghiệm bệnh lý học, người bệnh trí nhìn vũ trụ như tan vỡ và bị tán vụn. Chính vì thân thể của họ không còn là một thân thể tri giác bình thường.”
Trên thực tế là Nguyễn Ngu Ý, Bùi Giáng có điều trị… thiệt ở nhà thương điên Biên Hòa. Lời thơ của Bùi Giáng quả là… không bình thường. Còn Nguyễn Tất Nhiên thì hoàn toàn khác: chưa bao giờ bị điều trị ở Dưỡng Trí Viện Biên Hòa. Nhiều người ở Biên Hòa (trong đó có nhà thơ Tưởng Dung được biết trực tiếp) hiểu rõ vì muốn được hoãn dịch, Nguyễn Tất Nhiên phải đóng kịch… giảđiên tại Trung Tâm 3 Quang Trung. Trong một truyện ngắn, Nguyễn Tất Nhiên tiết lộ về lý do hoãn dịch là sau đó có được giấy chứng nhận của bác sĩ về bịnh “tâm thần” để khỏi đi lính. Được biết, mánh lới hoãn dịch này đã được dùng tới khá nhiều trong thời kỳ chiến tranh khốc liệt lúc đó. Khách quan mà nói Nguyễn Tất Nhiên không bị bịnh điên, mà trái lại đã tỏ ra rất tỉnh táo & khôn ngoan dám hăm dọa kiện và lấy được tiền bồi thường trong vụ án tranh chấp bản quyền có liên quan đến nhạc sĩ Phạm Duy. Những người điên thật như Bùi Giáng, Nguyễn Ngu Ý… làm gì có cái khôn ngoan đó để kiện lấy được tiền bản quyền.
Chi tiết do Phạm Duy đưa ra hoàn toàn phóng đại, sai và có thể gây lầm lẫn tai hại lớn cho những nhận định văn học sau này về Nguyễn Tất Nhiên. Sự thực những dòng thơ tình học trò độc đáo của Nguyễn Tất Nhiên không “có tí máu điên ” nào cả và chính như vậy mới xứng đáng được ca ngợi & quý mến của biết bao nhiêu người hâm mộ.
Nhưng chắc chắn Nguyễn Tất Nhiên có máu “lập dị“, đôi khi cũng hơi… “tửng tửng” khác thường. Cho nên mới bị bạn bè chọc ghẹo với biệt hiệu là “ngáo” là “khùng“. Bởi vậy, ngay trong giờ Việt Văn của Cô Vương Chân Phương tại trường Ngô Quyền, Nguyễn Tất Nhiên mới 15 tuổi đã dám phê bình… chê thơ Nguyễn Du (tâm lý ngựa non háo đá!). Nhưng xét cho cùng, nếu phải làm loại thơ tình học trò chắc gì thi hào Nguyễn Du thắng nổi Nguyễn Tất Nhiên, bởi lẽ Nguyễn Tất Nhiên có đặc điểm nổi bật “viết dễ dàng giống như nói chuyện “.
3) Ai đã tạo ra 2 huyền thoại kể trên?
Thông thường huyền thoại được cố ý tạo dựng ra với chủ đích đằng sau. Xét kỹ ra cả hai huyền thoại kể trên được nhạc sĩ Phạm Duy chủ động qua những tiết lộ từ chính bản thân như sau:
“Saigon 1972. Ðây là lúc những khổ đau của Tết Mậu Thân chưa kịp phai mờ trong đời sống của mọi người thì xẩy ra những nhức nhối của mùa hè đỏ lửa… Tôi hết chạy trốn vào đạo ca thì lại nhào ra với chiến ca, hết hạ mình xuống với vỉa hè ca, tục ca thì lại vươn lên với nữ ca, bé ca, bình ca… Tôi thèm thuồng được soạn tình ca, nhưng phải là tình ca không rầu rĩ cơ… Thế rồi tôi gặp Nguyễn Tất Nhiên. Trong bầu không khí thơ ở miền Nam hơi nặng nề vào lúc đó, đầy rẫy những bài thơ chủ đề về chiến tranh, hòa bình… thì thơ của chàng thư sinh mới 17 tuổi này là thơ phi chính trị. Thơ rất hồn nhiên, rất ngộ nghĩnh, theo tôi, nếu đem phổ nhạc thì sẽ cũng sẽ rất hợp với giọng hát trẻ trung (Duy Quang) trong ban nhạc gia đình là ban THE DREAMERS mà tôi đang cần ”lăng xê ”. Sau khi tôi phổ bài Thà Như Giọt Mưa Rớt Trên Tượng Ðá, Nguyễn Tất Nhiên cung cấp cho tôi thêm nhiều bài thơ để tôi biến thành những ca khúc trẻ trung của thời đại như Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ, Em Hiền Như Ma Soeur, Anh Vái Trời hay là Anh Nam Kỳ Dễ Thương, Hãy Yêu Chàng, Hai Năm Tình Lận Ðận… Những tên bài hát phần nhiều do tôi đặt ra…”
Những chi tiết trên cho thấy nhạc sĩ Phạm Duy lúc đó rõ ràng đã bị kẹt đề tài sáng tác nên mới tìm kiếm đến thơ Nguyễn Tất Nhiên đang trên đà nổi tiếng qua 2 bài thơ được nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang đầu tiên phổ nhạc. Đó là bản Thiên Thu và bản Vì Tôi Là Linh Mục. Nhạc sĩ Phạm Duy “phù thủy” hơn nên đã cố tình sửa đổi thêm vào để quảng cáo thành công lớn về thương mại. Điển hình nhứt so sánh trong bài thơ Khúc Tình Buồn không hề có nhân vật nữ tên Duyên, nhưng trong bài hát phổ nhạc thì được Phạm Duy đặc biệt thêm vào. Nhứt là bi thảm hóa qua 2 câu hát cuối: “Khiến người trăm năm đau khổ ăn năn. Khiến người tên DUYÊN đau khổ muôn niên“.
Tương tự trong mục tiêu đó, Phạm Duy đã viết tung tin phóng đại cho rằng Nguyễn Tất Nhiên có nhiều máu điên nhất và cùng với Nguyễn Ngu Ý, Bùi Giáng điều trị tại Nhà Thương Điên Biên Hòa để tạo một huyền thoại bi thảm khác thường… mà sự thực chuyện đó không hề bao giờ có.
4) Ai đã khám phá ra tài năng và tạo cơ hội cho Nguyễn Tất Nhiên nổi tiếng?
Dư luận thường cho rằng chính Phạm Duy đã khám phá ra tài năng và chất thơ “rất hồn nhiên, rất ngộ nghĩnh” của Nguyễn Tất Nhiên rồi mới quyết định phổ nhạc. Nhưng trên thực tế, Nguyễn Tất Nhiên – qua lời thuật lại của nhà thơ Nguyễn Thị Minh Thủy – đã liệt kê thứ tự các bài thơ được phổ nhạc như sau:
– Thiên thu (Nguyễn Đức Quang)
– Vì tôi là linh mục (Nguyễn Đức Quang)
– Thà Như Giọt Mưa (Phạm Duy)
– Hãy yêu chàng (Phạm Duy)
– Em hiền như ma soeur (Phạm Duy)
– Hai năm tình lận đận (Phạm Duy)
– Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ (Phạm Duy)
Bài hát Thiên Thu được phổ biến trên internet có đề là năm 1970 phát hành tại Sài Gòn. Điều này cho thấy nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang đã khám phá thấy ngay tài năng làm thơ của Nguyễn Tất Nhiên qua tập thơ Thiên Tai (1970) và chọn bài thơ “Thiên Thu” nằm ở trang cuối cùng trong tập thơ đó để phổ nhạc. Nhà thơ Tưởng Dung trong bài viết “Sao thiên thu không là…” cũng có cùng nhận xét về bài thơ đó: “rất thích ngay lần đầu đọc thơ anh, bấy giờ sao mà thấm thía“. Kế đến, nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang phổ nhạc bài Vì Tôi Là Linh Mục, mà chính Nguyễn Tất Nhiên xem là bài thơ ưng ý nhứt. Chính những dòng thơ được phổ nhạc đầu tiên này đã dễ lan truyền trong giới hâm mộ thơ nhạc và khiến các nhạc sĩ nổi tiếng nhứt thời đó như Phạm Duy, Anh Bằng… phải tò mò chú ý và đến nổi “động lòng” đua nhau tiếp tay phổ nhạc các bài tình ca khác dễ “ăn khách” hơn.
Như vậy, khách quan mà nói trong thời gian ”còn lận đận” chưa ai biết đến, Nguyễn Tất Nhiên gặp được một tri kỹ khám phá & tận tình phổ nhạc mà không có hậu ý thương mại nào. Đó là nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang (1944 – 2010), một nhân tài VN sống phục vụ lý tưởng Hướng Đạo cho đến tận cuối đời. Còn về phía nhạc sĩ Phạm Duy mãi đến 2 năm sau mới nhìn thấy chân tài của Nguyễn Tất Nhiên và “phải” phổ nhạc những vần thơ đó chỉ vì mục đích tư lợi như từng thố lộ ở phần trên. Qua đó cũng bộc lộ rõ bản chất ích kỷ suốt đời sống bất chấp đạo đức & dư luận của Phạm Duy, mà chúng ta ai cũng đã từng chứng kiến trong quá khứ.
Ngẫm nghĩ lại, Chúa Jesus há chẳng từng nói “Của Ceasar hãy trả lại cho Ceasar” với hàm ý rằng không ai có thể che lấp mãi về sự thực, rồi thì cũng có lúc sự thực sẽ lộ dạng. Cho nên hãy cùng nhau góp phần nhanh chóng trả lại Sự Thực cho Nguyễn Tất Nhiên để giúp linh hồn của nhà thơ yểu mạng này được cứu rỗi & mãn nguyện bên kia thế giới.
5 ) Tại sao thơ của Nguyễn Tất Nhiên đã lôi cuốn được tuổi trẻ?
Thơ của Nguyễn Tất Nhiên lôi cuốn tuổi trẻ… mới lớn vì thể hiện tâm tình và vần điệu rất học trò. Những dòng thơ quá si tình đánh đúng vào “tim đen” của đại đa số đã từng một thời đơn phương ôm ấp một hình ảnh vượt quá tầm tay và đến nỗi:
Thà như giọt mưa
Khô trên tượng đá
Có còn hơn không
Thơ Nguyễn Tất Nhiên thể hiện rất… nhân bản. Lúc mê thích thì vội vã ca tụng, để rồi lúc tỉnh mộng “uổng mớ tình si” thấy sự thực vào năm 1972 thì đâm ra “bôi lọ”:
Em nhớ giữ tính tình con gái Bắc
Nhớ điêu ngoa nhưng giả bộ ngoan hiền
Nhớ dịu dàng nhưng thâm ý khoe khoang
Nhớ duyên dáng ngây thơ… mà xảo quyệt
Nhưng chỉ thời gian ngắn sau đó… hối hận sáng tác bài thơ “Tạ lỗi cùng người ” thú nhận “lỗi lầm” của mình:
Năm năm trời … có một người tên Duyên
Ta ca tụng rồi chính ta bôi nhọ
Tình ta đẹp nhưng tính ta còn nít nhỏ
Nên lỗi lầm đã đục màu sông
Đốt… đuốc đi tìm trong làng văn thơ VN và cả thế giới nữa, chắc khó tìm thấy được một thi sĩ quá… thành thực dám “bôi lọ” thần tượng, dám công khai hối hận và dám “tạ lỗi” như cỡ Nguyễn Tất Nhiên. Đó là điểm dễ thương đặc biệt nhất của nhà thơ yểu mệnh này. Nhìn lại lịch sử nhân loại, đôi khi cho thấy chính hoàn cảnh cực đoan xảy cho bản thân là nguồn cảm hứng thúc đẩy cho nhiều người bất ngờ để lại cho hậu thế những sáng tác và công trình bất hủ. Giả sử, nếu Tư Mã Thiên không bị “nhục hình” (đến nỗi uất ức đóng cửa để chuyên tâm viết sách!) thì chắc gì tác phẩm Sử Ký lừng danh đã ra đời được. Hoặc nhạc sĩ Đặng Thế Phong bị bịnh nan y hết thuốc chữa, thấy tử thần lởn vởn bên cạnh mới gảy ra được điệu nhạc não nùng “Con Thuyền Không Bến“. Cũng như đệ nhứt thi hào Nguyễn Du được nguồn thi hứng ghê lắm khi tìm ra tri âm qua cuộc đời người kỹ nữ Thúy Kiều để sáng tác ra tác phẩm độc nhứt vô nhị Đoạn Trường Tân Thanh (Truyện Kiều). Xét cho cùng, Nguyễn Tất Nhiên hưởng được nguồn thi hứng tuyệt vời trong “5 năm si tình” từ 1967 đến 1972 với cuộc “tình si” cùng cô bạn học Bắc kỳ tên Duyên. Giả sử vào lứa tuổi 15 không gặp gỡ được một nhân vật nữ có cá tính “đặc biệt” như vậy, có lẽ Nguyễn Tất Nhiên cũng chỉ làm thơ hay cỡ như các bạn học đồng môn Hà Thu Thủy, Đinh Thiên Phương, Nguyễn Thị Hiền, Tưởng Dung, Nguyễn Thị Minh Thủy… và không chắc gì đã được chọn phổ nhạc tình học trò, để từ đó vang danh khắp nơi.
Lời kết
Nhưng câu hỏi cuối cùng được đặt ra: từ đâu Nguyễn Tất Nhiên lại có tánh lãng mạn đa tình quá vậy để dễ dàng “phóng bút” sáng tác thơ tình cho nhiều nhân vật nữ?.
Xét cho cùng, ngoài cá tính sẵn có, Nguyễn Tất Nhiên có 2 cơ hội “thuận tiện“:
a) tại trường trung học Ngô Quyền, nhờ Thầy Hiệu Trưởng Phạm Đức Bảo và ban Giám Đốc từng có những quyết định… táo bạo, dễ thương là mang “nhét ” một số nữ sinh vào lớp nam sinh (hoặc ngược lại!). Qua đó vào lúc 15 tuổi, Nguyễn Tất Nhiên và Duyên có cơ hội học chung với nhau trong lớp đệ Tứ vào niên khóa 1967/1968 để khởi đầu làm quen cho “5 năm si tình “. Nên nhớ, cũng nhờ quyết định cho nam nữ học chung lớp đã khiến nhiều cặp NQ quen nhau, rồi thương nhau để có khi thành bạn đời… mãi mãi. Như vậy, thực sự công lao của ban giám đốc NQ không phải… nhỏ đâu. Không có trường NQ với các nữ sinh “đặc biệt” như Bùi Thị Duyên, Hoàng Thị Kim Oanh, Nguyễn Thị Minh Thủy … thì khó lòng mà có những dòng thơ học trò Nguyễn Tất Nhiên và những cuộc tình học trò lãng mạn hơn “ba mươi năm chờ đợi“.
b) tại trường tiểu học Nguyễn Du năm 1957, lúc Nguyễn Tất Nhiên chỉ mới 5 tuổi đã được Cô giáo Hạnh đặc cách cho phép vào học lớp 1, mà người dì út (tên là Minh Nguyệt) đang theo học. Nguyễn Tất Nhiên sớm va chạm sinh hoạt nam nữ ngay từ đó (xem hình ảnh phía dưới). Biết đâu đúng như khoa học và nhà tâm lý học lừng danh Sigmund Freud (1856 – 1939) từng phân tích chứng minh rằng trong tiềm thức, con người đã bị ngoại cảnh chung quanh ảnh hưởng liên tục từ ngay lúc còn nằm trong bụng mẹ.
Chính vì vậy, cuối cùng vẫn là lời… cám ơn trường tiểu học Nguyễn Du và trường trung học Ngô Quyền của xứ bưởi Biên Hòa đã tạo nên môi trường thuận tiện để nảy nở được những vần thơ học trò vô cùng lãng mạn như Nguyễn Tất Nhiên từng sáng tác.
Người Xứ Bưởi / 2012
Học lớp 1 tại trường Nguyễn Du năm 1957. Nguyễn Tất Nhiên đứng thứ 2 (từ bên trái) của hàng thứ 2. Ảnh: ngo-quyen.org
(Tiếp nối chủ đề mùa thu, [dongnhacxua.com] vui mừng được giới thiệu bản nhạc “Nước mắt mùa thu” mà nhạc sỹ Phạm Duy đã ưu ái dành tặng cho nữ danh ca Lệ Thu. Ở đây nếu tinh ý sẽ nhận ra khả năng sử dụng ngôn ngữ rất khéo của nhà nhạc sỹ: “lệ” cũng có nghĩa là “nước mắt”, như vậy “Lệ Thu” có nghĩa là “nước mắt mùa thu”.)
Ca sỹ Lệ Thu. Ảnh: http://my.opera.com/diemxuacafe
Lệ Thu nổi tiếng từ lâu lắm rồi. Tên tuổi cô gắn liền với rất nhiều ca khúc như “Hương xưa” của Cung Tiến, “Ngậm ngùi” của Phạm Duy, “Thu hát cho người” của Vũ Ðức Sao Biển, “Tình khúc thứ nhất” của Nguyễn Ðình Toàn ố Vũ Thành An,… Cho đến bây giờ, sau gần 50 năm cuộc đời ca hát, cô vẫn là giọng hát được đứng lên vỗ tay tại nhiều đêm ca nhạc. Người ta đã viết nhiều, ca ngợi nhiều về cô. Hôm nay, chúng ta chỉ nhắc với nhau đôi nét vui vui trong cuộc đời cô..
Lệ Thu nguyên quán ở Hà Ðông, nhưng ra đời ở Hải Phòng. Tên thật là Bùi Thị Oanh.
Một buổi sáng mùa Ðông, Lệ Thu đã kể chuyện thời thơ ấu của cô: Bố mẹ Thu có 8 người con nhưng không biết tại sao các con cứ đến 2, 3 tuổi là đã qua đời. Ðến lượt Thu, mới ra đời là các cụ vội gửi vào trường các bà soeur. Mẹ kể rằng lúc mang bầu Thu, cụ đi chùa, nằm mơ thấy một ông mặt đỏ trao cho một bọc, trong có đứa bé. Chẳng biết vì ông cụ đó hay vì các bà soeur mà Thu sống được sau 4 anh chị đã qua đời. Thu học đàn, học nhạc từ nhỏ trong trường bà soeur.
Thực ra, tên Thu theo các cụ định thì không phải là Bùi Thị Oanh. Thầy Thu làm chức tước nhỏ gì đó ở làng hay huyện Ðông Xá. Mẹ Thu là thiếp, thua thầy đến gần 30 tuổi. Thầy dặn mẹ là nếu sinh con gái thì đặt tên là Bùi Trâm Anh, còn nếu con trai thì đặt là Bùi Gia Bảo. Thế lúc đi làm giấy tờ, Tây nó hỏi, cụ sợ, theo nếp cũ là con trai thì lót tiếng “Văn,” con gái thì lót chữ “Thị,” nên bèn khai đại là Bùi Thị Oanh. Cho nên trong nhà vẫn gọi Thu là Trâm chứ không gọi là Oanh.
Trong gia đình, họ hàng của Lệ Thu có rất nhiều người hát hay. Theo Lệ Thu, “Nếu dễ dãi mà cho rằng Lệ Thu hát hay, thì những người kia phải là hát cực hay. Lệ Thu không ăn thua gì so với những người đó.” Thí dụ ông cậu Lệ Thu tên là Phúc mà anh Hoàng Hải Thủy cũng có biết, hoặc anh Ðoàn là anh họ của Thu cũng vậy. Không ai trong gia đình Thu đi hát cả vì các cụ khó lắm. Ông bà ngoại Thu có 9 người con, rất nhiều người hát hay trong đám con cháu các cụ, nhưng không ai dám đi hát.
Lệ Thu vào Nam năm 1953. Hằng ngày đến trường, ở nhà, lúc nào cũng ê a hát vài câu. Ðược mọi người khen lại càng hát tợn, nhưng dĩ nhiên là các cụ không biết. Khoảng năm 1960, 1961, lúc đang học thi tú tài, bạn bè hay rủ Thu lên ăn uống ở nhà hàng Bồng Lai. Nhân buổi sinh nhật hay gì đó của một cô bạn, bọn bạn bè tự động giới thiệu Thu lên hát một bài. Thu kể: “Mình tuy thuộc loại bạo gan và hay nghịch, nhưng tự nhiên bị xách đầu lên hát cũng thấy e ngại. Sau khi hát xong vừa trở về bàn là ông Lê, giám đốc nhà hàng đến tìm Thu. Ông ta hỏi Thu muốn đi hát không, sẽ có thù lao như thế này này. Mới tý tuổi đầu, thấy kiếm được tiền nhờ ca hát là Thu nhận lời. Kệ, cứ đi hát xem sao. Nhưng phải dấu các cụ.”
Lúc đầu Thu hát ít thôi, đến hát xong là về, nói dối là đến nhà bạn bè họp bài, làm bài chung. Nhưng rồi có một anh chàng, trước đây vốn vẫn thích Thu, bắt gặp Thu đi hát bèn mách cụ bà rằng “Con Oanh cuối tuần nó vẫn đi hát đấy, chứ không phải đi học hay đi chơi với bạn bè đâu.” Cụ sợ quá, đang chứa “một trái bom nổ chậm trong nhà,” nay nó lại tự động gắn thêm một đống ngòi nổ nữa! Thế là cụ tống Thu đi lấy chồng. Nhưng Thu vẫn mê hát.
Lúc thành hôn, Thu còn bé, mới có 18 tuổi, chẳng biết bổn phận làm vợ là cái gì cả, lại còn thích hát, gia đình nhà chồng cho rằng, Thu thuộc loại “xướng ca,” như vậy không được. Thế là chỉ có vài tháng, chồng bỏ mất rồi. “Ai biểu lấy con nít về làm vợ làm chi,” Thu cười.
Về tên Lệ Thu, trong một lần đến chơi bệnh viện Cộng Hòa thăm ông cậu làm việc ở đó, gặp dịp lễ lạt bệnh viện dự định tổ chức văn nghệ cho thương bệnh binh giải trí. Ông cậu hỏi Thu: Cháu muốn hát không? Lúc đó Thu chưa đi hát bao giờ, nhưng vẫn gật đầu bừa, nhưng lại sợ mẹ. Cậu hứa sẽ về “nói với mợ cháu là đi chơi với cậu thì mợ yên tâm.”
Ðến lúc lên hát, bất ngờ người ta hỏi tên là gì để còn giới thiệu. Thu ú ớ, nói bừa là Mộng Thu. Sau thấy chữ Mộng có vẻ mộng mị quê mùa quá, nhưng lỡ dính chữ “Thu,” nên lấy tên “Lệ Thu” cho rồi. Thu vội nói với ông animateur, bây giờ gọi là ông MC, “Này ông ơi, tên tôi là Lệ Thu nhé.” Thực ra không biết từ bao giờ, thuở còn bé lắm, Thu cứ thích tên Thu. Còn chữ Lệ thì lúc sắp lên hát cuống quá, lấy đại cho rồi, nhưng chắc cả hai chữ đó lởn vởn đâu đó trong tiềm thức.
Lệ Thu cho biết: Ðọc sách Thu cũng biết chữ “lệ” có nghĩa là vẻ đẹp, cũng có nghĩa là nước mắt. Không biết lúc bật ra cái tên tiền định đó, Thu suy nghĩ theo chiều hướng nào. Khi đang hát độc quyền ở phòng trà Queen Bee, dư luận cho rằng Thu hát đặc biệt hay một số bài của Phạm Duy như “Ngậm ngùi, Bên cầu biên giới, Thuyền viễn xứ…”
Mấy nhà văn nhà báo như anh Duyên Anh, anh Hà Huyền Chi cũng khen ngợi. Có lẽ vì vậy anh Phạm Duy làm bài “Nước mắt mùa Thu” sau khi nghe mọi người khen hát hay bài đó, cũng tặng Thu luôn. Còn anh Nguyễn Mạnh Côn thì phê bình Thu một câu, rằng là cô rất xinh, cô hát rất hay, nhưng khi hát bài “Ngậm ngùi,” thơ của người ta là “Tay anh em hãy tự đầu,” tại sao cô lại hát thành “Tay em anh hãy tựa đầu,” sao có chuyện ngược đời như vậy. Lúc đó Thu mới biết hóa ra chữ nghĩa cũng rắc rối lắm chứ, chỉ vì mình còn nhỏ, chẳng chịu học hỏi tìm tòi gì cả. Từ khi bị anh Côn mắng như vậy, Thu đã cẩn thận hơn nhiều. Lúc đó khoảng năm 1969 thì phải. Anh Hà Huyền Chi cũng làm bài thơ “Lệ đá,” anh Trần Trịnh phổ nhạc, Thu hát được anh khen rồi tặng luôn cho Thu.
Tên tuổi Thu gắn liền với một số bài vừa mới kể trên, nhưng hình như còn một số bài Thu hát đặc biệt hay như bài “Hương xưa.” Lệ Thu kể chuyện: “Thu còn nhớ có lần hát bài ‘Hương xưa’ với chỉ một người đệm đàn dương cầm. Sau này mới biết là hôm đó có anh Mai Thảo cũng đến nghe. Anh Mai Thảo có nói với Hoàng Dược Thảo là ‘Lệ Thu bất tử với Hương Xưa.’”
Nhưng các bạn có biết là sau khi hát xong bài đó, mồ hôi Thu ướt đẫm. Ði qua ông La Thoại Tinh, dương cầm thủ, Thu nói: “Trời ơi, tôi run quá. Ông ta bèn xòe bàn tay cho coi, cũng ướt đẫm mồ hôi. Bởi vì hồi đó rất hiếm khi người ta hát với chỉ một người đệm piano, thường bao giờ hát cũng với một ban nhạc, nhờ đó tiếng hát của mình dễ được nâng cao hơn, cái khiếm khuyết của mình dễ được che dấu hơn. Nhưng hát với chỉ một cây đàn dương cầm thì rất đáng ngại vào thời buổi đó.
Lệ Thu kể lại chuyện vui buồn trong đời ca hát
Ngay từ những ngày chập chững đi hát cho vui, như hôm hát ở Tổng Y Viện Cộng Hòa chẳng hạn, đã nhiều chuyện vui rồi. Hôm đó, có một bài Lệ Thu phải hát hợp ca với các anh chị thuộc Ban Nhạc Tổng Y Viện Cộng Hòa, hình như bài “Tiếng hò miền Nam” thì phải. Ðến phần solo, Lệ Thu hùng dũng hát “Ðây có đoàn người dân di cư, vang câu hát tình quê dạt dào,…” Tự nhiên Thu nghe ở dưới cười ồ lên, chẳng biết tại sao.
Ngay lúc đó tự nghĩ mình hát được mà, có sai nhịp, sai nốt nào đâu, sao thiên hạ lại cười nhỉ. Nhìn lại quần áo mình đang mặc có gì là lố bịch đâu. Hóa ra Thu đã hát: “Ðây có một người dân di cư,…” Lúc sắp hát, mình lo sợ, chỉ sợ trật nhịp, sợ sai nhạc, thành ra không để ý đến lời. Sau đó mấy anh mới nói: “Ai chẳng biết một mình cô di cư!” Ngay từ lúc tập tễnh hát, Thu đã tự nhủ một điều là luôn luôn phải hát rõ lời bài hát, thì rõ ràng là chữ “một” chắc chắn phải khác chữ “đoàn” rồi.
Về chuyện nhạc lý, Thu chỉ nhớ hồi bé học nhạc trong trường bà soeur. Sau này học nhạc với một bà đầm khi nhà ở đường Võ Tánh. Bà ấy dạy piano, nhưng Thu chỉ học classic.
Lệ Thu ở lại sài Gòn sau 1975 vì mẹ không đi. Lúc đó cụ khoảng 65 tuổi. Thu cũng theo chân bạn vào đủ các nơi, từ Tòa Ðại Sứ Mỹ đến bến Chương Dương. Lúc đó Thu còn ở với Hồng Dương. Vào một dịp khác, Lệ Thu sẽ kể chúng ta nghe về những ngày còn kẹt lại Việt Nam.
(Tiếp nối dòng nhạc Trường Sa, [dongnhacxua.com] xin gởi đến bạn yêu nhạc xưa bài viết của nhạc sỹ Ngô Thụy Miên nhân dịp nhạc sỹ Trường Sa xuất bản tập nhạc đầu tiên cho riêng mình sau hơn 40 năm sáng tác. Nguồn: cothommagazine.com)
Bản nhạc ‘Xin còn gọi tên nhau’ – Trường Sa. Ảnh: VietStamp.net
Những năm cuối thập niên 60, đầu thập niên 70, giới yêu nhạc tại Sàigòn đã được nghe 3 ca khúc bất hủ của nhạc sĩ Trường Sa: Xin Còn Gọi Tên Nhau, Rồi Mai Tôi Đưa Em, và Mùa Thu Trong Mưa qua tiếng hát của nữ ca sĩ Lệ Thu. Chỉ với 3 bản tình ca này, vườn hoa âm nhạc Việt Nam đã có thêm một bông Hồng tuyệt đẹp.
Cá nhân tôi, khi nghe 3 ca khúc này đã yêu ngay cái nét nhạc dịu dàng, bình lặng như dòng suối nhỏ lượn quanh khu vườn yên tĩnh, rồi bất chợt trổi lên như cơn bão nổi, như con sóng thần ngập tràn dấu đau thương. Tôi cũng yêu nữa những lời ca sâu lắng, man mác buồn, chau chuốt nhưng không kiểu cách, không làm dáng. Cả 3 bài đều mang chung một nhịp điệu Slow buồn. Hồn nhạc lãng đãng, mênh mang diễn tả những cuộc tình lỡ làng, có lẽ xuất phát từ chuyện tình cảm mất mát của người nhạc sĩ tài hoa này. Hãy lắng nghe tiếng hát Lệ Thu vút cao khi diễn tả những dòng âm thanh trầm bổng kỳ diệu để thấy kỹ thuật viết nhạc và lời ca của anh đã có thể lôi cuốn, đưa đẩy, dẫn dắt người nghe vào những cơn mưa êm đềm, hay vào những cơn hồng thủy, chấn động, nát tan con tim:
Tình trong cơn ngủ mê Rồi phai trên hàng mi Chợt khi mình nhớ về Mộng thành mây bay đi Còn gì trên đôi tay Nên thầm hờn dỗi mình Cho tình càng thêm say… (Xin Còn Gọi Tên Nhau)
Chiều xưa em qua đây Ru hồn nắng ngủ say Lời yêu trót đong đầy Đón em thu mây bay Tiễn em xuân chưa phai Xót ngày vàng còn gì Đành đoạn rồi những lần chiều hẹn ước… (Rồi Mai Tôi Đưa Em)
Rồi thật tình cờ chúng tôi có dịp quen biết nhau, và lại có những tháng ngày làm việc chung trong một chương trình nhạc trên đài phát thanh Quân Đội, để tôi nhận biết thêm một điều, Trường Sa, tác giả những bài tình ca đã làm rung động bao tâm hồn của tuổi trẻ thập niên 60-70, còn là một sĩ quan cấp tá của Hải Quân quân lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn đang tiếp tục hành quân, chiến đấu ngoài mặt trận.
Sau 3 ca khúc này, Trường Sa tiếp tục gửi đến người nghe Một Mai Em Đi, Tàn Tạ, Ru Em Một Đời, Như Hoa Rồi Tàn… Rất nhiều ca sĩ hàng đầu của nền tân nhạc Việt Nam lúc đó đã hát những sáng tác của anh, nhưng theo tôi, nữ ca sĩ Lệ Thu đã đưa những tình khúc cũng như tên tuổi của anh đến tuyệt đỉnh danh vọng. Có thể nói Lệ Thu đã chuyên trở được trọn vẹn những tình cảm, tâm tư nhạc sĩ Trường Sa gửi gấm qua những tác phẩm của anh.
Tháng 4 năm 75 chúng tôi mất liên lạc… cho đến một dịp tình cờ ở hải ngoại khi xem cuốn video Thúy Nga 44, tôi đã gặp lại anh qua một sáng tác anh viết sau này: Mùa Xuân Sao Chưa Về Hỡi Em, và sau đó Những Mùa Thu Qua Trên Cuộc Tình Tôi trên sân khấu Asia. Năm 2003 Trung tâm Thúy Nga Paris đã thực hiện cuốn dvd Thúy Nga 70 để vinh danh, cũng như tri ân những đóng góp của anh cùng hai nhạc sĩ Phạm Mạnh Cương và Lê Dinh vào nền tân nhạc Việt Nam. Vẫn dáng dấp quen thuộc, vẫn gương mặt hiền lành, tiếng nói điềm đạm. Và cho dù cuộc đời đã trải qua bao thăng trầm, đổi thay, những sáng tác sau này của anh như Mùa Xuân Sao Chưa Về Hỡi Em, Những Mùa Thu Qua Trên Cuộc Tình Tôi, Bài Tình Ca Cho Kỷ Niệm, Xin Yêu Nhau Dù Ngày Mai Nữa…vẫn tràn đầy xúc cảm, nét nhạc vẫn dịu dàng, êm ái, lời ca vẫn trau chuốt, mượt mà như thuở nào.
Mùa xuân sao chưa về hỡi em Xua mây tan cho những ngày nắng êm Lũ chim non gửi gấm khúc tự tình Gọi xuân cho xanh mầu mắt em Và mơ ước thắm thiết mãi lên, cho ta nói yêu em… (Mùa Xuân Sao Chưa Về Hỡi Em)
Thôi còn đâu nữa Sài Gòn qua bao tháng ngày chung đôi Nỗi buồn phong kín những mùa thu qua trên cuộc tình tôi Theo ngàn mây mãi lang thang trôi vào tận cuối trời Tới bên em Sài Gòn lắng đọng một thời yêu xưa vang bóng… (Những Mùa Thu Qua Trên Cuộc Tình Tôi)
Một trong những nguyện vọng của anh là có thể gom góp tất cả những ca khúc anh đã sáng tác từ hơn 40 năm nay để in trong một tập nhac. Hôm nay trong niềm qúi mến đối với người nhạc sĩ một đời viết tình ca, và đã đóng góp rất nhiều cho nền tân nhạc của chúng ta, tôi xin được hân hạnh giới thiệu cùng các bạn tập nhạc qúi giá này.
Rất nhiều người cho rằng Sài Gòn không có mùa thu. Điều này không sai nhưng chưa hẳn là hoàn toàn đúng. Sáng nay trời Sài Gòn trở lạnh. Ngồi nhâm nhi ly cafe thật. Nghe lại bản “Mùa thu trong mưa” của nhạc sỹ Trường Sa. Và bất chợt một cơn mưa ập đến. Với [dongnhacxua.com], như vậy là quá hạnh phúc, một hạnh phúc của “Thu Sài Gòn”. Chúng tôi bỗng nhớ đến lời tâm sự của nhạc sỹ Trường Sa, lúc đó là hạm phó tàu tuần duyên Trường Sa trong Hải Quân của Miền Nam Việt Nam, về hoàn cảnh ra đời của “Mùa thu trong mưa”: trong một chiều dừng chân ở bến Mỹ Tho, một cơn mưa ập đến và khi cơn mưa chưa dứt, đường phố chưa lên đèn thì ông đã sáng tác xong nhạc phẩm này. Qua tiếng hát của Lệ Thu (một giọng ca mà ông hằng mến mộ) bản này đã nổi tiếng và gắn liền với tên tuổi của nhạc sỹ Trường Sa cũng như ca sỹ Lệ Thu qua hơn 40 năm.