“Tôi là Lâm Hào, vẫn còn sống đây!”

(Ngay sau khi [dongnhacxua.com] đăng lại một bài viết về ông Lâm Hào – người Việt Nam đầu tiên chế tạo thành công cây guitar điện và nhiều nhạc cụ khác thì một người bạn điện thoại từ Mỹ về cho chúng tôi biết là ông vẫn còn sống ở Hoa Kỳ. Tìm hiểu thêm thì chúng tôi phát hiện thêm một cuộc trò chuyện thú vị giữa Lâm Hào và báo Thể Thao & Văn Hóa.)

(Thethaovanhoa.vn) – Năm ngoái, trong quá trình tìm kiếm, sưu tầm tư liệu về Lâm Hào, người đã chế tác cây guitar điện hoàn toàn ở Việt Nam từ thập niên 1960, có thể sử dụg thay thế cho nhưng cây đàn ngoại nhập vừa hiếm vừa đắt đỏ (giá thành cao hơn 10-20 lần), chúng tôi cố liên lạc với ông bằng nhiều cách, nhưng thất bại. 

Những người biết, người quen “vua” chế tác guitar điện “made in Việt Nam” không ít, họ sẵn sàng chia sẻ nhiều nhận xét, nhiều câu chuyện về ông, nhưng cũng đã lâu họ đứt liên lạc với Lâm Hào. Vậy là bài báo Lâm Hào – Ông vua chế tạo guitar điện trên TT&VH Cuối tuần (11/2012), có đoạn: “Theo một nhà báo viết mảng âm nhạc tại California, có tin Lâm Hào đã qua đời cách đây vài tháng, nên email và điện thoại đã khóa, nhưng lướt tìm quanh các mạng thông tin thì chẳng có nơi nào đăng tải. 4-5 nhạc sĩ ở Mỹ từng quen Lâm Hào thì phản đối tin này, có người nói ông vẫn khỏe mạnh, thỉnh thoảng vẫn lui tới Hãng Fender để làm vài việc thủ công”.

Một ngày đầu tháng 3/2013, một cuộc điện thoại đến TT&VH Cuối tuần: “Tôi là Lâm Hào, vẫn còn sống đây”. Thế là “vua” chế tác guitar điện “made in Vietnam” đã trở về. 

Lâm Hào tuổi 80, ảnh chụp tháng 3/2013. Ảnh: Như Hà (TheThaoVanHoa.vn)
Lâm Hào tuổi 80, ảnh chụp tháng 3/2013. Ảnh: Như Hà (TheThaoVanHoa.vn)

* Ông ước tính mình đã làm khoảng bao nhiêu cây guitar điện không?

– Chẳng thể nào biết được, vì hơn 20 năm trong nghề, bên cạnh những chuyên viên về gỗ, về thép và bo mạch, tôi còn có hơn 40 thợ gia công tại xưởng, tất cả đều sống được. Chúng tôi vừa làm đàn cho nghệ sĩ chuyên nghiệp, vừa làm cho các cửa hàng bán đàn phổ thông ở khắp nơi. Trung bình mỗi ngày chúng tôi làm chừng 4-5 cây đàn cho nghệ sĩ chuyên nghiệp, lúc này vị thế cây guitar điện trong ban nhạc và cả ngoài xã hội rất quan trọng, là thời thượng, nên nhiều người muốn có.

* Tại sao ông lại nảy ra ý chế cây đàn theo Fender?

– Khoảng năm 1956, khi nhiều người Mỹ tại Sài Gòn muốn tìm chỗ sửa đàn. Khi cầm cây Fender trên tay, tôi đã nhanh chóng sao chép nó để nghiên cứu tổng thể và chi tiết, với mục đích sửa chữa cho ngon lành. Thời điểm đó, sở hữu được cây Fender thì xem như đời lên số má, vì nó rất đắt đỏ, khó mua, lại chuẩn mực về âm thanh. Mà không riêng gì người Việt thấy Fender đắt, người Mỹ cũng thế, nên nhiều người đã đặt tôi làm giống nhãn hiệu này. Đồ của Fender, thời bấy giờ (năm 1962), cây đàn Fender 1000 Steel Guitar là khó làm nhất, cả châu Á chưa nước nào làm được, vậy mà tôi dám nhận lời làm cho một người Mỹ một lúc 6 cây. Cái này là phiêu lưu khám phá thôi, chứ khi vào làm mới thấy mất công và tốn tiền dữ lắm, lỗ sặc gạch. Bên Mỹ cây đàn này được bán với giá chừng 2.000 USD, lúc đó tôi chỉ lấy 350 USD.

Nhạc sĩ Trần Thạnh với cây đàn Lâm Hào. Ảnh: TheThaoVanHoa.vn
Nhạc sĩ Trần Thạnh với cây đàn Lâm Hào. Ảnh: TheThaoVanHoa.vn

* So với Fender, cái gì ông ưu trội, cái gì ông chịu thua?

– Rõ nhất là chịu thua về nước sơn, vì nguồn sơn và thợ sơn của mình không lành nghề bằng họ, nên chơi vài ba năm là bong tróc; gỗ của mình cũng không tốt bằng, nên sau khoảng 10 năm là mối mọt. Mỹ cũng biết điều này nên hay đặt tôi làm đàn sơn mài hoặc cẩn xà cừ, họ rất thích, vừa lạ mắt, vừa rất bền. Cái khó nhất trong cây đàn Fender là cần đàn gỗ, nó có một lõi thép chính giữa, lên dây kiểu gì cũng không cong, cái này chúng tôi mày mò hơn hai năm cũng làm được. Còn về âm thanh, tôi chẳng biết so thế nào, vì không đủ thẩm quyền, chỉ thấy giới chơi nhạc chuyên nghiệp người Mỹ hay Philippines rất thích đàn của tôi, mỗi lần về nước là đều dành tiền mua 5-7 cây. Thấy người nước ngoài mua đàn của mình nhiều, tôi chỉ nghĩ đơn giản là mình bán rẻ hơn (chừng 50 đến 100 USD/ 1 cây) và tiện đường, họ ở Sài Gòn thì mua đàn ở Sài Gòn, vậy thôi.

* Vậy sao khi sang Mỹ định cư, ông không xin vào làm trong Hãng Fender như nhiều người đồn đại?

– Tôi chưa bao giờ làm cho Fender, vì suy nghĩ rằng, ở Việt Nam mình làm đàn là vì bản thân, bạn bè, giới âm nhạc quá cần, qua Mỹ thì làm cho ai đây.

Khi đến Mỹ tôi đã mất hai năm đi học để thành kĩ sư, làm cho hai hãng chế tạo, một hãng có 400 người, một hãng có hơn 5.000 người, nghĩa là mình rất bé nhỏ trong đó. Tôi làm cho hãng 5.000 người rất lâu, chuyên sản xuất các siêu kính hiển vi để kiểm tra các con chip trong máy vi tính hoặc những thứ siêu nhỏ khác; vài cỗ máy như vậy có giá bán lên đến 26 triệu USD. Hãng này đã giữ chân tôi đến năm 76 tuổi mới cho về hưu. Nói dài dòng như vậy để thấy rằng, nếu có quyết tâm vào Fender, tôi có thể làm được, nhưng ở đời mỗi lúc có một ưu tiên, tôi đã quyết định bỏ nghề làm đàn ngay khi đến Mỹ.

Cây đàn Fender 1000 Steel Guitar (hình cận), mà theo Lâm Hào là khó chế tạo nhất. Ảnh: TL (TheThaoVanHoa.vn)
Cây đàn Fender 1000 Steel Guitar (hình cận), mà theo Lâm Hào là khó chế tạo nhất. Ảnh: TL (TheThaoVanHoa.vn)

* Ngoài guitar, ông còn chế tạo những nhạc cụ nào?

– Chúng tôi làm theo tinh thần cây nhà lá vườn, nghĩa là có nguyên vật liệu đến đâu làm đến đó, hoặc có nhạc sĩ yêu cầu trợ giúp, thì mình mày mò. Từ khoảng 1968, tôi đã sửa được đàn organ, khoảng 1970 là có thể chế tạo, nhưng chẳng ai đặt hàng, nên không làm.

Ngay khi làm được cây đàn guitar điện đầu tiên, tôi cũng làm được một ampli đủ sức đứng trên các sân khấu. Lúc đó ampli Fender có giá chừng 400 USD, của chúng tôi chỉ khoảng 60 USD, nên được nhiều anh em chơi rock ủng hộ, chúng tôi đã bán hơn 1.000 bộ ampli. Cũng như guitar điện, tôi đã tốn hai ba ngàn USD cho việc mua ampli mới về giải phẩu, tìm hiểu và lập xưởng đúc, xưởng chế tạo linh kiện… Ngoài ra, chúng tôi còn làm một số thứ lặt vặt cho dàn nhạc, ví dụ như micro không dây, hát nhạc gì thì dùng micro loại nấy…
Trong các loại guitar điện, tôi thích làm nhất là cây bass, một phần do mình thích chơi nhạc cụ này, một phần do thứ âm thanh mạnh mẽ và điệu nghệ của nó.

* Xin hỏi thật ông có buồn khi nghe người ta nói mình đã chết không?

– Tôi vui nữa là khác, nói chết mà không chết là hỷ sự. Vì một đời người, tuy ngắn ngủi, nhưng chắc chắn chúng ta đã có vô số lần chạm trán cái chết, mà ai chẳng chết một lần, có gì phải sợ. Nhìn một cách nào đó, khi bỏ nghề làm nhạc cụ (năm 1979), lúc ấy xem như tôi đã chết. Năm nay tôi 80 tuổi, trải qua nhiều biến cố, đi làm còn “ăn gian” được 11 năm sau tuổi hưu, như vậy đã quá lời rồi. 

Về nhạc cụ Lâm Hào, nhạc sĩ Trần Thạnh phân tích:

Cần gạt của cây đàn Fender Stratocaster cho ra 5 âm sắc, còn Fender Telecaster cho 3 âm sắc, trong khi đàn Lâm Hào cho ra 7 âm sắc, là một sự pha trộn tuyệt vời; đặc biệt chỉ 3 nút gạt nhưng cho ra nhiều âm sắc mạnh mẽ, cao thấp linh hoạt, tiếng trong veo như pha lê. Thùng đàn mỏng hơn, thân gọn, phù hợp với vóc dáng người Á châu. Ampli cũng chẳng thua kém, phần lớn linh kiện chính là tự chế tại nhà, một số phụ kiện phải nhập… nhưng nếu đánh với loa tốt của Anh thì số dzách, càng chơi lâu càng sắc cạnh. Dân chơi rock ‘n’ roll thời bấy giờ mà có cặp đàn và ampli của Lâm Hào là tha hồ tung hành. 

* * *

Lâm Hào hiện thế nào?

 4-5 năm nay gia đình không liên lạc được, vì ông đổi số điện thoại. Chỉ biết ông đang sống với vợ kế ở San Jose, vốn là một ca sĩ của đoàn Bông Sen, vẫn còn khỏe mạnh, 1-2 năm trước có về TP.HCM chơi. Vợ lớn của ông tên Hà Ái Cầu, có với ông một gái (tên Lâm Mẫn Huệ, sinh ngày 3/11/1956) và hai trai, họ đang sống ở Los Angeles.

Theo một nhà báo viết mảng âm nhạc tại California, có tin Lâm Hào đã qua đời cách đây vài tháng, nên email và điện thoại đã khóa, nhưng lướt tìm quanh các mạng thông tin thì chẳng có nơi nào đăng tải. 4-5 nhạc sĩ ở Mỹ từng quen Lâm Hào thì phản đối tin này, có người nói ông vẫn khỏe mạnh, thỉnh thoảng vẫn lui tới Hãng Fender để làm vài việc thủ công.

Theo bút tích của Hoàng Hựu Tân đề tặng phía sau các bức ảnh chụp từ năm 1962, thì Lâm Hào còn có tên hiệu là Lâm Nãi Hào. Theo bản sao thẻ căn cước cấp lần hai ngày 17/9/1970 thì Lâm Hào có tên Lâm Lục Đê, sinh năm 1933 tại Chợ Lớn, cha tên Lâm Kinh, mẹ tên Tô Mai. Lúc làm căn cước, ông cao 181cm, nặng 61kg. Nếu Lâm Hào còn sống, nay ông đã bước qua 80 tuổi, theo âm lịch.
Theo Như Hà-TT&VH Cuối tuần số ra ngày 23/11/2012

NHƯ HÀ (thực hiện) 

Thể thao & Văn hóa Cuối tuần

[footer]

Chiều nay gió đông về (Khánh Băng – Hà Đình Nguyên)

(Trong một bài viết trước về bản “Sầu đông” của nhạc sỹ Khánh Băng, [dongnhacxua.com]  có trích đăng bài viết của nhà báo Hà Đình Nguyên viết cho báo Thanh Niên đầu năm 2005 nhân sự ra đi của nhà nhạc sỹ. Trước đó 3 năm, anh Hà Đình Nguyên cũng đã có một buổi trò chuyện với nhạc sỹ Khánh Băng, khi đó đã 67 tuổi. Để cung cấp thêm thông tin cho bạn trẻ yêu nhạc xưa, [dongnhacxua.com] xin trích đăng lại bài viết này.)

Ban kích động nhạc Khánh Băng - Phùng Trọng. Ảnh: DiemXuaCafe
Ban kích động nhạc Khánh Băng – Phùng Trọng. Ảnh: DiemXuaCafe

CHIỀU NAY GIÓ ĐÔNG VỀ
(Nguồn: nhà báo Hà Đình Nguyên, đăng trên báo Thanh Niên năm 2002)

Trước mặt tôi là một ông già 67 tuổi. Dù chưa bước qua ngưỡng “thất thập cổ lai hi” nhưng đôi mắt của ông gần như đã mù lòa. Mọi việc, dù nhỏ nhặt bình thường nhất cũng cần có người thân giúp đỡ. Con người ấy đã một thời thành danh trong làng âm nhạc ở Sài Gòn những năm trước 1975. Giờ đây ông quẩn quanh trong nhà, với nỗi niềm “lực bất tòng tâm” như lời một bài hát của chính ông – nhạc sĩ khánh Băng: “Chiều nay gió đông về…”.

Sinh năm 1935 tại Thắng Tam (Vũng Tàu), ngay từ thời còn học tiểu học cậu bé Phạm Văn Minh đã khiến cho bạn bè “lác mắt” bởi ngón đàn mandolin. Cậu cũng luôn là người “đầu têu”, dàn dựng những chương trình văn nghệ học đường. Cậu học trò Minh cũng bắt đầu sáng tác nhạc trong thời gian này. Bản nhạc nào tâm đắc, cậu gửi lên Sài Gòn cho nhạc sĩ Võ Ðức Thu (anh ruột của người bạn thân tên Võ Ðức Thảo). Nhạc sĩ Thu xem, sửa chữa những chỗ sai sót bằng bút đỏ rồi gởi trả về Vũng Tàu như một kiểu học hàm thụ – nhờ thế mà khả năng, kiến thức về nhạc lý, sáng tác của Khánh Băng được củng cố và tiến bộ rất nhiều.

* Ðó là thời thơ ấu. Thực ra ông chính thức bước vào lĩnh vực ca nhạc từ lúc nào ?

Tôi có được chút tiếng tâm kể từ lúc lên Sài Gòn học trung học ở Trường Huỳnh Khương Ninh – Ða kao (năm 1949). Ở khu vực Tân Ðịnh này, chúng tôi thành lập một nhóm thanh thiếu niên yêu thích văn nghệ, trong đó có Vân Hùng, Tùng Lâm… thường xuyên tập dượt với nhau để chỉ… đi phục vụ đám cưới miễn phí. Vậy mà vui lắm! Tôi chuyên biểu diễn mandolin. Cũng nhờ cây đàn 8 dây này mà năm 1954 tôi thi đậu vào… làm nhạc công trong Ðài Phát thanh Sài Gòn. Sau đó chính Tùng Lâm tiến cử tôi với nhạc sĩ Trần Văn Trạch, ông này cho tôi được chơi đàn ở đoàn Sầm Giang của ông và giới thiệu tôi vào đàn ở Ðài Pháp – Á. Khánh Băng khởi nghiệp từ đó…

* Với cây đàn mandolin ?

– Mới đầu là vậy nhưng một thời gian sau tôi thấy cây đàn mandolin khó có chỗ để dụng vô, tôi bèn quay sang cây đàn guitar. Tự học. Phải mất hơn 2 năm khổ luyện. Có thể nói, tôi là người Việt Nam đầu tiên sử dụng cây guitar điện trên sân khấu.

* Trong lĩnh vực sáng tác, đến nay ông đã có bao nhiêu tác phẩm? Nhạc phẩm đầu tay của ông là bản nhạc nào?

Khó nhớ hết những bản nhạc tôi đã sáng tác. 500 thì… quá ít, 1.000 lại hơi nhiều. Tôi sáng tác từ thời còn… mặc quần cộc nên cũng chẳng nhớ nhạc phẩm đầu tay là bài nào. Có điều tôi không bao giờ quên là vào ngày thứ ba 15.3.1955 Ðài phát thanh Sài Gòn lần đầu tiên phát bài hát của tôi, bài Nụ cười thơ ngây do Minh Trang và Anh Ngọc song ca. Còn thành danh nhờ bài Vọng ngày xanh (1956). Bài hát này được Hội S.C.A.C.E.A.M (Hội Tác quyền quốc tế) có trụ sở tại Paris mời gia nhập hội với lời Pháp do nữ văn sĩ Francoise Sagan viết cộng với bài Sầu đông do tôi tự viết lời Pháp, tựa là Johnny Mon amour (1967).

* Thời đó, người ta gọi thể loại nhạc mà ông sáng tác là “kích động nhạc”. Ông giải thích cụm từ này như thế nào?

Thật ra chẳng có gì ghê gớm cả! Chẳng qua là một cách gọi để chỉ các bản nhạc có tiết tấu nhanh, sôi động (như nhạc trẻ bây giờ). Trước tôi đã có nhiều nhạc sĩ sáng tác thể hóa này, như Lê Yên (Ngựa phi đường xa), Y Vân (Sài Gòn đẹp lắm)… Tuy nhiên những bài hát Sầu đông, Có nhớ đêm nào, Tiếng mưa rơi… do tôi sáng tác vào khoảng năm 1962 vẫn được coi là những bài nhạc trẻ đầu liên ở Việt Nam. Mà tôi đâu chỉ viết nhạc kích động, tôi cũng viết nhạc trữ tình dưới các bút danh khác như: Anh Minh, Nhật Hà… Từ năm 1991 đến năm 1996, trước khi mắt bị mờ tôi vẫn còn sáng tác được hơn 100 bài, trong đó có những bài khá phổ biến như Trên nhịp cầu tre, Chờ người, Chiều đồng quê… mang phong cách nhạc đồng quê Nam Bộ.

* Ban nhạc Khánh Băng – Phùng Trọng nổi tiếng trước đây không lẽ chỉ có… hai người?

Ồ không, đông chứ! Nhưng chỉ lấy tên hai người trụ cột là Khánh Băng (guitar), Phùng Trọng (trống). Ngoài ra còn có Nguyễn Thành (saxo ténor), Sầm Sơn (guitar bass), Thu Phước (trompette). Ban nhạc được thành lập đầu thập niên 60. Ðây cũng là ban nhạc đầu tiên xuất hiện trên truyền hình. Năm 1966 ban nhạc được HCV do khán giả bình chọn là Ban nhạc chơi hay nhất trong cuộc thi do Hội Ký giả Sài Gòn tổ chức. Anh Phùng Trọng hiện còn sống ở TP Hồ Chí Minh.

* Quả là một thời lừng lẫy. Chắc chuyện tình cảm của ông thời đó cũng… lẫy lững không kém. Ông có thể tiết lộ chút ít về cô Khanh và cô Băng mà ông đã “mượn” tên ?

Lẫy lừng gì, rối rắm thì có. Không phải là mình tham lam gì, chỉ vì… cầm lòng không đậu (cười). Còn hai cô Khanh và Băng, chỉ là những ấn tượng đẹp đầu đời. Thuở ấy chúng tôi còn… tí xíu! Cô Băng giờ cũng đang… dưỡng lão ở Vũng Tàu, cô Khanh thì biệt tích từ lâu. Mới đó mà “mùa đông” đã về với chúng tôi rồi.

Chiều nay gió đông về. Dừng chân trên bến xưa…

Hà Đình Nguyên

[footer]

Khánh Băng (1935-2005): Mùa đông đã về

Nhớ về nhạc sỹ Khánh Băng, người yêu nhạc ngay lập tức nhớ đền nhạc phẩm “Sầu đông” bất hủ. Nhạc sỹ Khánh Băng tên thật là Phạm Văn Minh. Ông sinh năm 1935 tại Vũng Tàu và mất ngày 09/02/2005, nhằm ngày mùng một Tết Ất Dậu tại Sài Gòn. Nghệ danh Khánh Băng là ghép từ tên hai cô bạn từ thời tiểu học, một người tên Khanh, một người tên Băng và ông thêm dấu sắc vào thành Khánh Băng. Mấy hôm nay trời Sài Gòn trở lạnh, [dongnhacxua.com] xin được thắp một nén hương sưởi ấm linh hồn ông “nơi cuối trời” (lời trong bản “Sầu đông”).

sau-dong--0--khanh-bang--amnhac.fm--dongnhacxua.com
Ảnh bìa: amnhac.fm
sau-dong--1--khanh-bang--amnhac.fm--dongnhacxua.com
sau-dong--2--khanh-bang--amnhac.fm--dongnhacxua.com
Ban nhạc Thời Đại với Khánh Băng và Phùng Trọng. Ảnh: DiemXuaCafe
Ban nhạc Thời Đại. Ảnh: DiemXuaCafe

NHẠC SỸ KHÁNH BĂNG: “VỀ NƠI CUỐI TRỜI … NHỚ”
(Nguồn: nhà báo Hà Đình Nguyên, đăng trên Thanh Niên)

Trở về với công việc thường nhật sau những ngày nghỉ Tết, gặp nhau ở căn-tin Hội Âm nhạc TP.HCM, câu đầu tiên mà anh em văn nghệ hỏi nhau là: “Biết tin gì chưa ? Nhạc sĩ Khánh Băng đi rồi !”. “Khi nào ?”. “Ngay hôm mùng 1 Tết”. Rồi ca sĩ Ánh Tuyết gọi điện thoại báo tin… Chợt thấy lạnh cả hồn, ngày đầu xuân mà tự nhiên thấy xốn xang tê tái muốn bật lên câu hát: “Chiều nay gió đông về… Đành thôi nhớ mong, gởi cho gió đông, tình yêu giá băng vào nơi cuối trời… nhớ” (ca khúc Sầu đông của nhạc sĩ Khánh Băng) 

Tôi đến thắp nhang cho ông tại nhà riêng ở đường Chu Văn An (Q.Bình Thạnh), nhìn di ảnh cố nhạc sĩ trên bàn thờ mà chạnh nhớ ngày đầu tiên gặp ông cách đây hơn 3 năm. Dạo đó, sau rất nhiều lần dò hỏi tôi mới có được địa chỉ chính xác của ông, và… trước mắt tôi là người nhạc sĩ nổi tiếng một thời nay đã là một lão ông 67 tuổi, mái tóc bạc trắng còn đôi mắt thì hầu như đã mù hẳn. Tuy thế, giọng nói của ông vẫn sang sảng và trí nhớ rất minh mẫn. Chẳng thế mà khi tôi hỏi về ca khúc sáng tác đầu tay, ông trả lời: “Tôi không bao giờ quên được vào ngày thứ ba 15/3/1953, lần đầu tiên Đài Phát thanh Sài Gòn phát bài hát của tôi, đó là bài Nụ cười thơ ngây do Minh Trang và Anh Ngọc song ca”. Khi chia tay, tôi ngỏ ý xin ông một tấm ảnh thời còn trai trẻ và bản nhạc Sầu đông (gốc) để đăng báo, ông cười xin lỗi bảo là do đổi chỗ ở nhiều lần nên cả hình lẫn nhạc đều chẳng còn. Thế nhưng trưa hôm đó, dù trời nắng như đổ lửa ông vẫn đi xe ôm đến tòa soạn tìm tôi và trao bản nhạc mà ông vừa mượn lại của nhạc sĩ Tiến Luân. May sao, bìa sau của bản nhạc này có in hình đủ 4 người trong ban nhạc Thời Đại (Khánh Băng, Phùng Trọng, Dương Quang Định, Dương Quang Lê Minh) và tôi đã sử dụng tấm hình này trong bài viết. Đến bây giờ, hình ảnh một ông lão mù lòa đi xe ôm giữa một buổi trưa hực nắng vẫn còn xốn xang trong lòng tôi…

Nhạc sĩ Khánh Băng tên thật là Phạm Văn Minh, sinh năm 1935 tại Thắng Tam (Vũng Tàu). Nghệ danh Khánh Băng là tên của 2 cô bé bạn học từ bậc… tiểu học ghép lại (một người tên Khanh còn người kia tên Băng, cậu học trò Minh thêm vào một cái dấu sắc và mang tên này suốt đời). Được nhạc sĩ Võ Đức Thu hướng dẫn và nâng đỡ, Khánh Băng khởi đầu sự nghiệp ca nhạc với cây đàn mandoline và thi đậu vào làm nhạc công ở Đài Phát thanh Sài Gòn (1954), sau đó ông chơi đàn ở đoàn Sầm Giang của nghệ sĩ Trần Văn Trạch và ở Đài Pháp – Á. Khánh Băng được coi là người Việt Nam đầu tiên sử dụng đàn guitar điện trên sân khấu, trong thập niên 60 của thế kỷ trước. Ngoài biểu diễn, ông còn sáng tác rất nhiều ca khúc, tiêu biểu như: Vọng ngày xanh, Có nhớ đêm nào, Tiếng mưa rơi, Nếu một ngày, Đôi ngả chia ly, Nếu có nhớ đến… riêng bản Sầu đông ông còn đặt cả lời Pháp với tựa đề Johnny Mon Amour. Khoảng thời gian trước khi bị mù (từ 1991-1996), ông sáng tác được chừng 100 ca khúc, trong đó có những bài khá phổ biến như: Trên nhịp cầu tre, Chờ người, Chiều đồng quê… mang phong cách Nam Bộ.

Người nhà của cố nhạc sĩ kể lại: sáng mùng 1 Tết ông còn nói cười vui vẻ, ăn bánh mứt và nhận lời chúc Tết của con cháu. Đến trưa ông kêu mệt, đi nằm và rồi đi luôn vào cõi vĩnh hằng lúc 16 giờ 30 cùng ngày. Ngày Tết, hầu hết các cơ quan đều không làm việc nên việc thông tin về sự ra đi của ông có phần trở ngại. Đưa ông về an táng tại quê nhà Vũng Tàu (vào ngày mùng 4 Tết) cũng chỉ có gia đình và một vài văn nghệ sĩ thân thiết đã từng gắn bó với ông từ ngày xưa…

Hà Đình Nguyên

Những bước chân âm thầm (Y Vân – Kim Tuấn)

[dongnhacxua.com] thật ngạc nhiên khi vô tình biết thêm một chi tiết thú vị về phố núi Pleiku, nhạc sỹ Y Vân và nhà thơ Kim Tuấn: nhạc phẩm nổi tiếng “Những bước chân âm thầm” của Y Vân là phổ từ bài thơ “Kỷ niệm” của thi sỹ Kim Tuấn viết về thành phố Pleiku bụi mờ đầy kỷ niệm của những năm 1960.

Người hát nếu không để ý kỹ sẽ dễ hát sai thành “hoa bỗng dưng tuyết trắng“. Trong bài thơ thì Kim Tuấn viết “hoa vông rừng tuyết trắng“, còn trong bản nhạc mà chúng tôi sưu tầm được thì nhạc sỹ Y Vân viết “hoa vòng rừng tuyết trắng“. Theo chúng tôi thì “hoa vông rừng” là chính xác nhưng không biết có phải là Y Vân cố tình sửa thành “hoa vòng rừng” hay đó chỉ là lỗi xuất bản. Y Vân đã mất năm 1992, Kim Tuấn cũng đã vĩnh viễn giã từ “miền kỷ niệm” năm 2003. Thế là [dongnhacxua.com] và những người yêu dòng nhạc xưa vẫn  còn đó một câu hỏi thật dễ thương!

Hình minh họa cho cây gòn. Photo: WorldOfStock.com
Hình minh họa cho cây gòn. Photo: WorldOfStock.com

Qua bài viết này, [dongnhacxua.com] cầu nguyện cho linh hồn nhà thơ Kim Tuấn sẽ được thanh nhàn miền cực lạc!

 nhung-buoc-chan-am-tham--0--y-van--kim-tuan--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

 

nhung-buoc-chan-am-tham--1--y-van--kim-tuan--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

 

nhung-buoc-chan-am-tham--2--y-van--kim-tuan--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

 

nhung-buoc-chan-am-tham--3--y-van--kim-tuan--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

PLEIKU THÂN YÊU – TỪ ‘KỶ NIỆM’ ĐẾN ‘NHỮNG BƯỚC CHÂN ÂM THẦM’
(Nguồn: tác giả Xuân Trường  đăng trên  PleikuCafe.com)

Những năm 60 của thế kỷ trước, nhà thơ Kim Tuấn sống tại Pleiku và đã sáng tác nhiều bài thơ cho miền đất thơ mộng này. Sau đó, anh về Sài Gòn rồi mất năm 2003. Kỷ niệm là bài thơ anh viết cho Pleiku, được Y Vân phổ nhạc và trở nên nổi tiếng… 

Ngày ấy, nhà ở đường Phan Bội Châu, buổi chiều anh thường lang thang ra ngoại ô. Những khu vườn làng đồng bào dân tộc được trồng những cây vông rừng (cây gòn rừng), mỗi khi nó nứt trái thì bông bên trong màu trắng bay lả tả theo gió, rơi rơi nhẹ nhàng như từng miếng nhạc chạm vào cuối chiều xa nhớ đến tận cùng hoàng hôn, khiến anh nghĩ đến Pleiku có tuyết trắng:

Từng bước từng bước thầm
Hoa vông rừng tuyết trắng
Rặng thông già lặng câm
Hai đứa nhiều nuối tiếc

Tình yêu trong bài thơ dù có nguyên mẫu hay không, nhà thơ cũng đã tinh tế hòa nhịp cái tình trong cái cảnh, như một bức tranh Pleiku hoàng hôn, thanh thản nỗi buồn trong veo mà người ta dễ cảm nhận ở cái xứ sương mù và quanh năm mùa đông này.

Những năm tháng ấy, Pleiku còn nhiều cảnh chiến tranh và bắt lính. Có lẽ vì thế mà tuổi trẻ buồn cho thân phận, buồn cho tương lai như những hàng thông lặng câm, hay mây núi chụm đầu thủ thỉ. Tác giả đã điệp khúc nỗi buồn của tuổi trẻ ngày ấy nhiều lần:

Từng bước từng bước thầm
Cuối đầu in dấu mỏi
Tuổi trẻ buồn lặng câm
Núi nghiêng đầu thủ thỉ

Từ bài thơ Kỷ niệm của Kim Tuấn, nhạc sỹ Y Vân ở Sài Gòn đã phổ nhạc thành ca khúc Những bước chân âm thầm mà đến nay nhiều người Pleiku, Sài Gòn hoặc hải ngoại đã hát thuộc lòng, nhưng ít có người biết đó là bài hát liên quan đến Pleiku, được sáng tác tại Pleiku.

Từ những năm 90, người ta ồ ạt khai thác gỗ vườn để xẻ ván xuất khẩu, làm vắng bóng những cây gòn rừng, bay tuyết trắng chiều ngoại ô Pleiku. Biết bao giờ mới có lại cái không gian cây xanh ấy.

Kim Tuấn và Y Vân không còn nữa nhưng Kỷ niệm – Những bước chân âm thầm vẫn đang bềnh bồng khắp mọi nơi, không chỉ có ở Pleiku thân yêu. Thêm một lần nữa, chúng ta hãy cùng đọc lại bài thơ này:

Từng bước từng bước thầm
Hoa vông rừng tuyết trắng
Rặng thông già lặng câm
Hai đứa nhiều nuối tiếc

Sương mù giăng mấy đồi
Tay đan đầy kỷ niệm
Mưa giữa mùa tháng năm
Dật dờ cơn gió thổi

Một tháng không trăng rằm
Mây núi ôm trời thấp
Giá rét về căm căm
Cao nguyên mù đất đỏ

[footer]

Giã từ (Tô Thanh Tùng – Băn Vi): Vĩnh biệt nhạc sỹ Băn Vi (1949-2004)

Trong nỗ lực để làm sáng tỏ nhạc phẩm “Giã từ” liên quan đến hai nhạc sỹ Tô Thanh Tùng và Băn Vi mà [dongnhacxua.com] đã đề cập ở hai bài viết của Đinh Thu HiềnNgữ Yên, chúng tôi đã may mắn có được bản nhạc “Giã từ” do nhà Minh Phát xuất bản vào năm 1973 (trên trang AmNhacMienNam.blogspot.com). Theo đó, nhạc sỹ Tô Thanh Tùng đã cẩn thận ghi tên nhạc sỹ Băn Vi lên sáng tác chung này. Như vậy mọi nghi ngờ về việc nhạc sỹ Tô Thanh Tùng có tôn trọng nhạc sỹ quá cố Băn Vi hay không đã được sáng tỏ. Cũng giống như trường hợp bản Buồn của Y Vân, có lẽ sau năm 1975, việc xuất bản và lưu hàng nhạc không được quy củ như ngày xưa nên mới nảy sinh nhiều tình huống hiểu lầm đáng tiếc.

Cũng qua bài viết này này, [dongnhacxua.com] xin gởi lời cầu chúc mong linh hồn của nhạc sỹ Băn Vi – Huỳnh Văn Bi về nơi chốn yên bình và cũng gởi lời chúc sức khỏe đến nhạc sỹ Tô Thanh Tùng.

gia-tu--0--to-thanh-tung--ban-vi--amnhacmiennam--dongnhacxua.com gia-tu--1--to-thanh-tung--ban-vi--amnhacmiennam--dongnhacxua.comgia-tu--2--to-thanh-tung--ban-vi--amnhacmiennam--dongnhacxua.comgia-tu--3--to-thanh-tung--ban-vi--amnhacmiennam--dongnhacxua.com

[footer]

Tô Thanh Tùng và “thương hiệu bolero”

(Tô Thanh Tùng là một trong số ít các nhạc sỹ đã thành danh trước năm 1975, tiếp tục ở lại và sáng tác tại Việt Nam. Hiện ông cũng đã ở ngưỡng “thất thập cổ lai hy” và đang vui hưởng tuổi già ở Bình Dương. [dongnhacxua.com] xin trân trọng gởi đến bạn yêu nhạc xưa bài viết của nhà văn Đinh Thu Hiền đăng trên báo điện tử Giáo Dục).

Nhạc sĩ Tô Thanh Tùng qua nét vẽ của họa sĩ Nhím. Photo: GiaoDuc.edu.vn
Nhạc sĩ Tô Thanh Tùng qua nét vẽ của họa sĩ Nhím. Photo: GiaoDuc.edu.vn

Bất kỳ ai gặp nhạc sĩ Tô Thanh Tùng, tác giả của những ca khúc nổi tiếng Giã từ, Sao em nỡ đành quên, Giăng câu, Tình cây và đất, Hồng Ngự mang tên em, Tiễn biệt… cũng đều có cảm tình ngay lần đầu tiên. Vẻ mộc mạc, rất Nam Bộ của ông được “đóng dấu” vào trong từng ca khúc. Và cuộc đời thăng trầm của Tô Thanh Tùng cũng được trải nghiệm trong từng lời ca, giống như lời trong ca khúc Giã từ “Tuổi đời chân đơn côi/ gót mòn đại lộ buồn/ Đèn đêm bóng mờ nhạt nhòa…”.

Gắn với “thương hiệu bolero”
Nhạc sĩ Tô Thanh Tùng sinh năm Giáp Thân (1944) tại huyện Hồng Ngự – tỉnh Đồng Tháp. Đam mê ca hát từ nhỏ và vì yêu cảnh sông nước quê mình nên ông đã tự mày mò sáng tác. Khởi đầu trong các sáng tác của ông là dòng nhạc trữ tình – bolero. Bản nhạc đầu tiên ký tên Tô Thanh Tùng là Hồng Ngự mang tên em (1963).
 
Những sáng tác của Tô Thanh Tùng là nhiều cuộc tình xâu chuỗi lại. Ông yêu nhiều và được nhiều cô gái hâm mộ. Dù hết lòng với tình yêu, nhưng cho đến tận bây giờ, đã ở cái tuổi 67, ông vẫn còn lang thang đi tìm một tình yêu đích thực cho mình.
 
Tác phẩm Sao em nỡ đành quên cũng là một trong những đứa con của tình yêu như vậy. Năm 1965, Tô Thanh Tùng rời quê nhà Đồng Tháp lên Sài Gòn học Trường Luật. Kỳ nghỉ hè năm thứ nhất về Hồng Ngự, ông gặp lại cô gái chung xóm tên Tuyết. Trong buổi gặp ấy, Tuyết khi đó mới 17 tuổi đã thố lộ tình yêu với chàng sinh viên đa tài này. Nhưng vì đang còn đi học, chưa muốn ràng buộc gì nên Tô Thanh Tùng không dám nhận mối tình trong sáng ấy. Đêm về, trong sự day dứt, ông đã viết Sao em nỡ đành quêntặng cho Tuyết mà mở đầu là một lời trách móc rất con gái: “Sao em nỡ đành quên bao lời tha thiết êm đềm/ Sao em nỡ đành quên chuyện tình đẹp như giấc mơ…”.
 
Ca khúc bolero Giã từ cũng thế. Ông kể: “Năm 1970, tôi cùng một nhóm sinh viên Văn Khoa hay vào một quán cà phê tại Đa Kao (quận 1) bởi quán này có một người con gái đẹp tên Diễm ngồi thu ngân. Tôi biết Diễm để mắt tới tôi bởi lúc ấy, tôi có sáng tác bài Mắt Diễm buồn cho ca sĩ Elvis Phương hát được nhiều người biết đến. Tuy nhiên, những ngày vui của tôi với Diễm khá ngắn ngủi, khi nàng ngoảnh mặt quay lưng cũng là lúc tôi đau khổ. Nhiều đêm dài lang thang dưới phố rồi đêm về tôi viết nên ca khúc Giã từ…”. Năm 1971, Tô Thanh Tùng tình cờ quen một cô ca sĩ miệt vườn tên Thu Vân có giọng hát rất hay, anh liền mời cô này từ Sa Đéc về Sài Gòn thu âm bài Giã từ để gửi cho đài phát thanh. Thế nhưng, nhạc sĩ Lê Dinh (Trưởng phòng Văn nghệ Đài Phát thanh Sài Gòn) lại từ chối phát vì quy định lúc đó tất cả các ca sĩ được xuất hiện trên sóng phát thanh đều phải đạt tiêu chuẩn là nổi tiếng. Trong khi đó Thu Vân chỉ là một ca sĩ dưới miệt vườn, không có tiếng tăm. Nhưng khi nghe qua băng cassette, nhạc sĩ Lê Dinh đồng ý cho phát một lần vào sáng chủ nhật, nếu dư luận tốt thì sẽ phát tiếp. Không ngờ với phong cách bolero tuyệt vời cộng hưởng cùng giọng hát da diết của Thu Vân, Giã từ đã làm lay động hàng triệu trái tim của thính giả yêu âm nhạc. Nhiều người đã bật khóc khi nghe bản nhạc này trong đêm vắng. Cô ca sĩ miệt vườn này cũng nổi tiếng từ đó, hiện cô đang định cư ở nước ngoài.
 
Không “đóng khung” mình
Dù rất thành công với dòng nhạc bolero nhưng nhạc sĩ Tô Thanh Tùng không muốn “đóng khung” mình ở một thể loại. Những năm 90, khi chương trình Mưa bụi làm mưa làm gió trên thị trường âm nhạc lúc bấy giờ thì Tô Thanh Tùng lại một lần nữa khiến nhiều người ngạc nhiên khi trình làng ca khúc Giăng câu hết sức dân dã, khác với dòng nhạc bolero do Đình Văn và Tài Linh trình bày. Giăng câu mang âm hưởng rặt dân ca Nam Bộ, được giới bình dân đặc biệt yêu thích. Ca từ trong Giăng câu cũng hết sức dễ hiểu: “Em hỏi anh đêm nay đi dâu/ Anh nói rằng anh đi giăng câu/ Anh đi giăng câu trên chiếc xuồng câu/ Anh có cây sào anh chống ào ào, chống ào ào…”. Ca sĩ Bảo Yến, một trong những ca sĩ rất yêu thích dòng nhạc bolero của Tô Thanh Tùng đã gọi ông là người phổ thơ tuyệt vời với các bài Người hàng xóm của thi sĩ Nguyễn Bính, Chùa Hương thiếu em của nhà thơ – nhà báo Dương Trọng Dật.
 
Tô Thanh Tùng sống rất giản dị và chất phác. Bốn năm qua, Tô Thanh Tùng về thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương mua đất làm vườn, vui thú điền viên. Tính ông hiền lành, không màu mè, khách sáo, luôn cười sảng khoái đúng kiểu nông dân Nam Bộ. Có lần xuống thăm, trong buổi tiệc rượu lai rai, ông cầm đàn chơi vài bản. Ông hát Giăng câu réo rắt như mình đang ở vùng Đồng Tháp Mười chống sào đi câu cá; hát Sao em nỡ đành quên thì ngậm ngùi, man mác; Giã từthì da diết, ám ảnh. Và đến Tình cây và đất thì vô cùng trong sáng, thánh thiện. Trong các đám cưới, nhiều ca sĩ thường chọn Tình cây và đất để chúc phúc cho cô dâu chú rể vì “Trời se duyên nên khiến anh gặp em/ Cho lứa đôi kết thành mộng ước của ngày xanh/ Rồi mai đây anh là đất em là cây/ Vĩnh phúc cho ai biết rằng, từ đó mùa xuân vĩnh hằng…”. Với giai điệu bolero, các bài hát của Tô Thanh Tùng thường đem lại cảm giác buồn và đôi chút mất mát, ngậm ngùi. Tuy nhiên, ông khẳng định rằng câu kết trong các bài hát của ông đều rất có hậu. Tình yêu dù đã ra đi nhưng vẫn nên giữ lại những điều ngọt ngào về nhau. Ví như trong Giã từ, kết thúc là “Người về trong thương nhớ, người đi nhớ thương người”. Còn trong Tiễn biệt thì “Chúc em phương đó có nhiều tương lai, với bao mong ước đong đầy trong tay”. Mới đây, Tô Thanh Tùng còn trình làng một album Đại Nam huyền sử ca với gần 20 bài hát mới cũng như phổ thơ với ca từ và giai điệu hùng tráng gắn với lịch sử oai hùng của dân tộc: Nhớ ngày giỗ Tổ, Cha Lạc Long Quân, Mẹ Âu CơĐại Nam huyền sử ca… Còn một “gia tài” khoảng 50 ca khúc nữa Tô Thanh Tùng vẫn chưa phát hành, ông cười bảo còn đang chờ những tình yêu mới trong quãng đời còn lại của mình.

[footer]

“Còn chút gì để nhớ” được phổ nhạc và hát lần đầu tiên tại Pleiku như thế nào?

Tiếp nối bài viết về nhạc phẩm bất hủ “Còn chút gì để nhớ“, hôm nay  [dongnhacxua.com] trân trọng giới thiệu một bài viết của tác giả Nguyễn Quang Tuệ – ghi theo lời kể của ông N.H – đăng trên báo Gia Lai Online, số Xuân Quý Tỵ 2013

Pleiku. Mùa mưa. Khoảng năm 1970. Trước một chút, tôi bị bắt quân dịch, rồi làm lính kiểng. Lo lót để được ở lại thị xã, công việc chủ yếu của tôi là… chơi nhạc. Pleiku hồi ấy được mệnh danh là thị xã của lính, thị xã của binh khí, xe pháo. Lính tráng có lúc nhiều gấp ba lần dân Pleiku.

Nhưng công bằng mà nói, Pleiku cũng là nơi có rất nhiều quán xá, câu lạc bộ gắn liền với âm nhạc. Tôi còn nhớ, hồi đó một số quán cà phê ở Pleiku vẫn thường tổ chức những đêm thơ, nhạc một cách khá bài bản, ví như quán Văn, Tay Trái,… Pleiku ngày ấy cũng còn là nơi lui tới khá thường xuyên của nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng, một số người trong đó, còn sống và sáng tác cho đến tận bây giờ.

con-chut-gi-de-nho--nguyen-quang-tue--dongnhacxua.com
Còn một chút gì để nhớ (Vũ Hữu Định). Nguyễn Quang Tuệ thiết kế.

Ngoài hai mươi tuổi, tôi cùng vài ba anh em thân quen đồng trang lứa khác chơi nhạc cho khá nhiều nơi trong thị xã. Thu nhập kể ra cũng không đến nỗi nào nhưng quan trọng là vào thời điểm ấy, tính mạng mình được an toàn hơn là phải ra mặt trận. Một hôm, khoảng hơn 20 giờ, sau khi chơi nhạc, chúng tôi đang sửa soạn rời câu lạc bộ Đại Hàn (Korea Club)-nằm trên đường Hùng Vương (đường Hoàng Diệu cũ, chỗ sát tường rào Nhà Văn hóa Lao động, gần đối diện với cổng Trường THPT Chuyên Hùng Vương bây giờ) để trở về nhà thì có một tốp người đi vào. Sở dĩ hàng đêm chúng tôi phải về sớm là vì, hồi đó, chừng 22 giờ hoặc trước 22 giờ một chút, Pleiku đã phát lệnh giới nghiêm, cấm người dân ra khỏi nhà.

Tôi nhìn thấy trong nhóm đang đi vào ấy có mấy người tôi biết mặt, biết tên từ trước, số còn lại thì sau lần gặp gỡ ấy, tôi mới biết họ. Đó là nhạc sĩ Phạm Duy, nhà thơ Kim Tuấn (tức Nguyễn Phước Vĩnh Khuê (1938-2003), quê Hà Tĩnh, hậu duệ của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, tác giả các lời thơ được phổ nhạc nổi tiếng như Những bước chân âm thầm, Anh cho em mùa xuân, đồng thời là thầy dạy tiếng Anh của anh em tôi ở Pleiku), đại úy quân cảnh Nguyễn Vinh Hiển (nhà văn Hoàng Khởi Phong, tác giả của tiểu thuyết Người trăm năm cũ, Nhà Xuất bản Hội Nhà văn, 2009).

Rạp Chiếu bóng Thanh Bình, năm 1969. Ảnh tư liệu, Nguyễn Quang Tuệ sưu tầm.
Rạp Chiếu bóng Thanh Bình, năm 1969. Ảnh tư liệu, Nguyễn Quang Tuệ sưu tầm.

Cùng đi với những văn nghệ sĩ ấy còn có một vài người khác nữa. Nhưng cho đến tận bây giờ, tôi vẫn không sao quên được một người đã gây cho tôi những ấn tượng mạnh trong buổi tối hôm ấy. Người ấy trẻ, trạc tuổi tôi, mặc một tấm áo màu xám, sau lưng có dòng chữ LCĐB in đậm.

Thấy chúng tôi đứng dậy toan về, nhạc sĩ Phạm Duy nói: Ở nguyên đó đi, có việc cần đấy. Chúng tôi miễn cưỡng chờ, dù trong lòng ai chắc cũng đã nóng như lửa đốt, vì giờ giới nghiêm đã tới rồi. Dường như biết sự lo lắng của mấy anh em nhạc công, ông Phạm Duy lại bảo: Lát có xe đưa về. Cứ yên tâm. Đến nước này thì chúng tôi cũng đành yên tâm vậy, vả lại có ông sĩ quan quân cảnh ở đây, chắc chúng tôi sẽ không bị làm phiền vì về nhà lúc đã quá giờ quy định.

Nhạc sĩ Phạm Duy kéo ghế ngồi xuống, mấy người đi cùng lặng lẽ tản ra xung quanh. Ông lấy trong túi cái áo màu đen đang mặc ra một tờ giấy và một cây bút rồi bắt đầu kẻ các dòng nhạc rất nhanh. Một lát sau, thấy chúng tôi đã đứng, ngồi sẵn sàng bên các nhạc cụ quen thuộc của mình, ông hất hàm bảo: Đô trưởng, boston nhé. Và thế là ông cầm tờ giấy hát trước, mấy anh em tôi đệm theo sau. Ngoài trời lúc ấy có mưa nhưng không nặng hạt lắm.

Giọng Phạm Duy lúc bổng khi trầm khá cuốn hút. Ông dứt lời, mọi người vỗ tay chúc mừng. Tôi nhớ, hình như Phạm Duy hát xong có đặt tờ giấy xuống bàn, gạch sửa chút ít gì đó, hát lại một vài câu rồi mới gấp nó lại bỏ vào túi áo thì phải. Riêng người đặc biệt của tôi đêm ấy thì không nói gì, anh lặng lẽ ngồi đó cho đến khi chúng tôi được một chiếc xe Jeep đưa về tận nhà, mà không bị ai xét hỏi dọc đường. Lúc ấy, tôi đã biết: Anh là Vũ Hữu Định, một người lính phản đối chiến tranh nên bị đày lên mặt trận cao nguyên nguy hiểm trong màu áo LCĐB (lao công đào binh).

Nhiều chục năm đã trôi qua, bài thơ Còn một chút gì để nhớ của Vũ Hữu Định sau khi được Phạm Duy chắp cánh, có thể nói đã trở nên bất tử, suốt từ sau những năm 1970 của thế kỷ trước đến nay. Tôi rất thích khi có người viết rằng Vũ Hữu Định (và cả Phạm Duy nữa) đã đội vương miện cho thành phố này-Phố núi Pleiku. Tôi biết Vũ Hữu Định từ dạo ấy. Nhưng cũng phải nói thật, ban đầu, tức cái đêm hôm đó, tôi quý anh không phải vì thơ, mà chính là vì thấy… lạ quá, nể phục trong lòng quá.

Trong đầu tôi bao năm vẫn cứ mãi loanh quanh một câu hỏi: Tại sao những văn nghệ sĩ nổi tiếng như thế lại cất công đi tìm anh, chơi với anh, coi anh như bạn bè thân thiết, trong khi anh đang là lao công đào binh, một người đã phải đứng trước tòa án binh lãnh án, bị đày ra phục dịch tại mặt trận, nơi cái chết có thể đến bất cứ lúc nào? Sau này tôi mới hiểu, đằng sau thân hình thấp nhỏ kia, bên trong tấm áo xám ấy là cả một tâm hồn lớn của một tài năng. Và, những người lớn đã vì tài năng mà quý nhau, đến với nhau, bất kể thân phận cụ thể…

Rất nhiều năm sau, khi tập thơ của Vũ Hữu Định được Nhà Xuất bản Trẻ ấn hành, internet đã phổ biến rộng rãi và nhất là khi nhạc sĩ Phạm Duy trở về Việt Nam định cư, thường tổ chức các đêm diễn lớn, tôi đã đọc thêm được ở đâu đó những thông tin về bài thơ Còn một chút gì để nhớ. Rằng nó đã được viết hồi năm 1970, từng được đăng trên tạp chí Khởi hành… Nhạc sĩ Phạm Duy trong một lần lên Pleiku tìm cảm hứng sáng tác, đã gặp Vũ Hữu Định và như ông từng viết thì: Vũ Hữu Định chính là một thi sĩ đích thực. Giống nhiều người khác, khi phổ thơ, vẫn thường thêm vào hay bớt đi một vài câu chữ của nguyên bản, nhưng riêng với Còn một chút gì để nhớ thì Phạm Duy “kính trọng hoàn toàn bố cục (structure) cũng như vận tiết (prosodie) của thi phẩm”-như ông thừa nhận.

Có thể, sau cái lần tự tay viết những nốt nhạc đầu tiên cho tác phẩm của mình tại Pleiku ấy, nhạc sĩ Phạm Duy còn chỉnh sửa thêm nữa trước khi công bố để bài hát trở nên nổi tiếng. Nhưng với tôi, đó là một kỷ niệm khó quên, dù vào thời điểm ấy, tôi chưa hoàn toàn ý thức được vấn đề, vì bài hát chưa được ai biết, ngoài tác giả, vài bạn bè của ông, trong đó có Vũ Hữu Định và chúng tôi-những người chơi nhạc tình cờ được Phạm Duy nhờ vả chút ít trước giờ giới nghiêm, thời mà Pleiku còn như là… trại lính.

Pleiku từ một thị xã bé nhỏ, nay đã được mở rộng, khác xưa rất nhiều. Tôi đã ở đây suốt từ thời ấu thơ, cho đến lúc về già, chứng kiến biết bao thay đổi. May mắn thay, dù cuộc sống có biến động thế nào đi chăng nữa, tôi vẫn được làm công việc mà mình yêu thích, đó là chơi nhạc và dạy nhạc. Trong cơ man âm thanh vang lên mỗi ngày ấy, tôi và rất nhiều những bạn trẻ yêu nhạc, vẫn dành những tình cảm trìu mến cho thành phố này. Chúng tôi đã yêu quý, gắn bó với Phố núi Pleiku, một phần vì âm nhạc, trong đó có tác phẩm của Phạm Duy-Vũ Hữu Định-Còn một chút gì để nhớ.

Chung quanh nhạc phẩm Buồn của Y Vân (Lê Dinh)

(Nhân nói về nhạc phẩm “Buồn“, [dongnhacxua.com] xin trích đăng lại một bài viết của nhạc sỹ Lê Dinh đăng trên tờ Nguyệt San Nghệ Thuật số 152/11-2006 do ông chủ biên)

Nhạc sỹ Lê Dinh. Ảnh: CongDongHoaLan.com
Nhạc sỹ Lê Dinh. Ảnh: CongDongHoaLan.com

Nhà thơ Lê Phụng Thiên có gửi đến Nghệ Thuật một lá thư cho biết nhạc phẩm «Buồn» của Y Vân là do Y Vân phổ bài thơ có tựa là «Buồn như» trong Tuyển tập thơ «Sầu ở lại» của nhà thơ Tạ Ký. Nhạc phẩm «Buồn» của cố nhạc sĩ Y Vân do tác giả viết năm 1980. (Xem thủ bút ca khúc Buồn của Y Vân kèm theo). Trong bản chép tay này, Y Vân không có ghi phổ từ bài thơ «Buồn như» của Tạ Ký hay «Ýù thơ của Tạ Ký».

Trong phạm vi sáng tác ca khúc, nếu chúng ta lấy nguyên văn – hoặc gần như nguyên văn một bài thơ nào đó – chúng ta ghi «Phổ từ bài thơ nào của nhà thơ nào» hoặc nếu ta chỉ lấy ý thơ thôi mà không lấy nguyên văn bài thơ, thì chúng ta ghi «Ý thơ của…»

Trong suốt 32 trường canh của ca khúc «Buồn» với 86 chữ của phần lời, chúng ta thấy Y Vân có lấy nguyên văn 5 chữ «Buồn như ly rượu đầy» (Câu thứ 3 của bài thơ) để làm câu đầu của ca khúc «Buồn», và nguyên văn 5 chữ «Buồn như ly rượu cạn» và 5 chữ «Không còn rượu cho say» để làm lời ca cho từ trường canh thứ 5 đến trường canh thứ 8 (sửa chữ «cho» thành chữ «để» – «cho say» thành «để say»):

«Buồn như ly rượu đầy
Không có ai cùng cạn
Buồn như ly rượu cạn
Không còn rượu để say…»

Từ trường canh thứ 9 đến trường canh thứ 16, lời không giống bài thơ, chỉ có ý là có hơi hám của bài thơ:

«Buồn như trong một ngày
Hai đứa không gặp mặt
Buồn như khi gặp mặt
Không còn chuyện để vui».

Riêng đoạn giữa, từ trường canh thứ 17 đến trường canh 24 với lời ca:

«Đôi ta như bước lên đỉnh sầu
Vì đời lên cao ngất thương đau
Bao lâu ân ái chưa được nhiều
Toàn là cay đắng giết thương yêu»

thì không hoàn toàn dính dáng gì đến bài «Buồn như».

Và 4 trường canh chót với lời ca:

«Tình đôi ta thật buồn
Như lứa hoa nở muộn
Tình yêu không trọn vẹn
Buồn mỗi ngày buồn hơn»

thì cũng hoàn toàn khác hẳn với bài thơ.

Về ca khúc «Buồn» của nhạc sĩ quá cố Y Vân, nếu tác giả cẩn thận ghi thêm «Ý thơ của Tạ Ký» thì là một điều phải và đúng thì không có gì để nói. Theo tôi, có nhiều nhạc sĩ sáng tác, tình cờ đọc đâu đó một bài thơ có ý lạ, giữ trong đầu ý hay và lạ đó để rồi sáng tác một ca khúc dựa vào ý thơ đã thoáng qua trong đầu nhờ nội dung bài thơ đã đọc mà chắc chắn rằng họ không còn nhớ nguyên văn bài thơ, cùng tên bài thơ và cả tên tác giả. Ca khúc «Buồn» của Y Vân nằm trong trường hợp này và sự việc tương tự đã xảy ra không ít trong giới sáng tác ca khúc. Ngoài ra, chúng ta cũng nên biết rằng Y Vân là một nhạc sĩ có tài, sáng tác rất nhanh, bàn luận với anh tối hôm trước về một đề tài nào đó, sáng hôm sau Y Vân có ngay một sáng tác mới để trình làng và rất hay. Đó là trường hợp của những bài như «Anh về thủ đô», «Người bạn 10 năm qua». «Hát lên nào» v.v… Hoàn thành xong một ca khúc với cả phần nhạc và lời trong vài chục phút, ghi vội lên góc giấy tên tác giả để kịp đưa cho ca sĩ thu thanh, đó là Y Vân và bởi vậy chuyện «khiếm xác» thế nào cũng dễ dàng xảy ra.

Dưới đây là bài thơ «Buồn như» của Tạ Ký

Buồn như ly rượu cạn,
Không còn rượu cho say
Buồn như ly rượu đầy,
Không còn một người bạn.

Buồn như đêm khuya vắng,
Qua cửa sổ trông trăng.
Buồn như em nói rằng:
Nhớ anh từng đêm trăng.

Buồn như yêu không được,
Dù người yêu có thừa.
Buồn như mối tình xưa,
Chỉ còn dòng lưu-bút.

Buồn như buồn như thế,
Buồn như một kiếp người.
Đây cõi lòng quạnh-quẽ
Buồn như đóa hoa rơi. (Tặng Tôn Thất Trung Nghĩa)

[footer]

Buồn (Y Vân)

[dongnhacxua.com] không có điều kiện để tìm hiểu kỹ về cuộc sống của nhạc sỹ Y Vân sau năm 1975. Tuy nhiên, dựa vào những thông tin thu lượm được, chúng tôi có thể hình dung phần nào về cuộc sống khó khăn và tâm trạng chán chường của ông trong giai đoạn này: từ sự tự do để sáng tác, ông bắt buộc phải đi theo đường lối của chế độ mới nếu muốn còn được viết nhạc; từ vị thế một nhạc lừng danh có cuộc sống thoải mái, ông phải lao động cật lực với đủ thứ nghề để nuôi sống gia đình vốn đông con, v.v.

Thế nên, trong tâm trạng như vậy, cảm tác từ bài thơ “Buồn như” của Tạ Ký, đầu những năm 1980, nhạc sỹ Y Vân đã cho ra đời một nhạc phẩm lạ với giai điệu đẹp và ca từ đặc sắc để diễn tả … nỗi buồn: nhạc phẩm “Buồn”, bản tình ca hiếm hoi mà Y Vân sáng tác sau 1975. Thời gian sau đó, những năm 1986-1992, Việt Nam bắt đầu mở cửa và với chính sách thoáng hơn, Y Vân đã bắt đầu có cảm hứng sáng tác trở lại nhưng hầu hết là ông làm nhạc phim và nhận soạn hòa âm cho các trung tâm băng nhạc ở Sài Gòn.

Có một chi tiết bên lề về nhạc phẩm “Buồn”: có người nói Y Vân đã thiếu sót khi quên ghi tên tác giả bài thơ vào bản nhạc. Theo thiển ý của [dongnhacxua.com], nhà nhạc sỹ của chúng ta hoàn toàn không cố ý, cũng có thể do điều kiện thông tin liên lạc thời đó còn thô sơ và chuyện xuất bản, in ấn  nhạc không được quy củ như thời trước 1975 nên mới có hiểu lầm này. Với tài năng đặt lời trau chuốt và khả năng dùng tiếng Việt đầy sức biểu cảm (như trong “Ngăn cách”, “Nhạt nắng”, …) Y Vân hoàn toàn viết nên những dòng tâm sự như trong “Buồn”.

[dongnhacxua.com] xin mượn bài viết này để phần nào “minh oan” cho nhạc sỹ Y Vân và cũng xin đóng góp một phần nhỏ bé để tri ân nhà nhạc sỹ đáng mến của chúng ta!

XEM THÊM VÀI BẢN NHẠC TRƯỚC 1975 MÀ Y VÂN CẨN THẬN GHI TÊN NHÀ THƠ
(Nguồn: http://amnhacmiennam.blogspot.com/)

nhung-buoc-chan-am-tham--1--y-van--kim-tuan--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com thoi--1--y-van--nguyen-long--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

[footer]

Lòng mẹ (Y Vân)

Nhắc đến Y Vân là giới yêu nhạc nghĩ ngay đến ‘Lòng mẹ’ bất hủ dù ông có trên dưới 200 sáng tác thuộc đủ mọi thể loại. Theo [dongnhacxua.com] ‘Lòng mẹ’ là bản nhạc hay nhất và tiêu biểu nhất cho tình yêu bao la của người mẹ Việt Nam.

Nhạc sỹ Y Vân tên thật là Trần Tấn Hậu. Ông sinh năm 1933 tại Hà Nội và mất năm 1992 tại Sài Gòn. Sớm mồ côi cha từ nhỏ, tình yêu và lòng kính trọng đối với người mẹ tảo tần nuôi đàn con thơ có lẽ là những động lực sâu xa để nhạc sỹ Y Vân viết nên ‘Lòng mẹ’.  Thế còn duyên cớ để cho ra đời bản nhạc này, theo như lời kể của nhạc sỹ  Y Vũ, em trai của ông là: năm 1952, gia đình nhạc sỹ di cư vào Nam. Vào khoảng năm 1959, khi đó Y Vân là nhạc công có tiếng chơi cho các ban nhạc ở Sài Gòn mà khi đó đang là giai đoạn bắt đầu hưng thịnh của các phòng trà. Trong một đêm lo mải giặt đồ cho cả nhà ở cây nước công cộng trong xóm mà mẹ của Y Vân đã về trễ sau giờ giới nghiêm. Và kết quả là bà bị quân cảnh tạm giữ. Khuya đó khi đi diễn về, Y Vân nghe tin và ông vội vã đến đồn cảnh sát để bảo lãnh cho mẹ. Cũng trong đêm đó, Y Vân đã thức trắng đêm để viết nên ‘Lòng mẹ’. Sáng hôm sau, ông đã hát cho mẹ nghe và như thế có lẽ mẹ ông là người đầu tiên được nghe bản này.

Ảnh bìa nhạc: http://amnhacmiennam.blogspot.com
Ảnh bìa nhạc: http://amnhacmiennam.blogspot.com
long-me--1--y-van--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com
long-me--2--y-van--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com
long-me--3--y-van--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com