Dòng nhạc Xuân theo năm tháng (Chàm Phương)

Trong nỗ lực để cung cấp thông tin phong phú và đa chiều cho người yêu nhạc xưa, chúng tôi hân hạnh đăng bài viết của tác giả Chàm Phương gởi riêng cho [dongnhacxua.com].

DÒNG NHẠC XUÂN THEO NĂM THÁNG

(Nguồn: tác giả Chàm Phương ở email locin…@yahoo.com gởi riêng cho [dongnhacxua.com])

Tình cờ tìm thấy tấm hình của bốn cựu thành viên của ban nhạc Tiếng Tơ Đồng ngày xưa khiến tôi nghĩ đến những mùa Xuân đằm thắm của quá khứ: tươi tắn và thanh nhã. Do đó tôi xin lấy bốn giọng ca này (Thái Thanh, Hà Thanh, Mai Hương và Quỳnh Giao) làm nguồn cảm hứng cho vài dòng sau đây về dòng nhạc Xuân mà lẽ ra người ta chỉ viết khi Tết sắp đến.

Ban Tiếng Thời Gian với Thái Thanh, Hà Thanh, Mai Hương và Quỳnh Giao. Ảnh: casihathanh.wordpress.com
Ban Tiếng Thời Gian với Thái Thanh, Hà Thanh, Mai Hương và Quỳnh Giao. Ảnh: casihathanh.wordpress.com

Không rõ dòng nhạc Xuân mà người ta thường hay hát vào dịp Tết chính thức ra đời khi nào, nhưng bài tân nhạc về Xuân xưa nhất mà tôi biết được là “Xuân Nghệ sĩ Hành khúc” của Lê Yên và kế đến là “Xuân và Tuổi Trẻ” của La Hối sáng tác năm 1944. Thập niên 30 và 40 cũng chính là giai đoạn phôi thai của tân nhạc Việt Nam mà, theo nhạc sĩ Phạm Duy, “được sinh sôi nẩy nở trong một bối cảnh lịch sử rất sinh động cho nên nó cũng mang ngay vết tích của thời đại……tại Việt Nam, giữa lúc tân nhạc đang được thành lập, sự phản ứng của thanh niên đối với thái độ của nhà cầm quyền Pháp là đưa ra những bài hát không phải để xưng tụng ‘mẫu quốc’ đang thất trận, mà là để nung nấu lòng yêu nước và chí quật khởi của tuổi trẻ…” Không chính thức vỗ tay reo mừng sự tàn lụi của thực dân, nhạc sĩ Lê Yên đã viết: 
 
“Xuân tươi xuân vui 
Xuân đẹp trong ý thơ đẹp trong tiếng ca 
đẹp trong sắc muôn ngàn hoạ Xuân về 
Ta chào xuân khắp nơi 
chào xuân thắm tươi 
chào xuân với bao ngày vui”

(Xuân Nghệ sĩ Hành khúc – Lê Yên)


 
Sau đó 7 năm, trong hoàn cảnh quân đội Nhật đang lấn lướt các thế lực theo Pháp tại Việt Nam, nhạc sĩ gốc Hoa trẻ tuổi La Hối đã sáng tác một giai điệu đầy sức sống theo điệu Valse mà về sau nhà văn Thế Lữ đã đặt lời Việt và cho nó cái tựa đề “Xuân và Tuổi Trẻ”. Theo nhạc sĩ Phạm Duy, “một loại Tân Nhạc khác đã ra đời trong mấy năm 40-44 được hát trong các giới hướng đạo và sinh viên học sinh, với chủ đề là Niềm vui sống và Tình yêu nước”. Thật vậy, bài “Xuân và Tuổi Trẻ” đã kêu gọi giới trẻ: 
 
“Xuân thắm tươi, én tung bay cao tít trời, 
Vui sướng đi, cao tiếng ca mừng reo 
Đừng để lòng thổn thức tình mê đắm 
Ta trẻ vui, ta trẻ vui đời xuân tươi “
 
Qua đến đầu thập niên 50, đất nước tương đối yên bình và đó cũng là lúc thính giả Việt Nam được nghe những bài nhạc Tết trong sáng với mục đích thuần túy là chào đón sự vươn mình của mùa Xuân và cũng là những lời chúc Tết hiền hòa, dịu dàng nhất qua âm nhạc. Điển hình là “Gió Mùa Xuân Tới” của Hoàng Trọng đã quay lại với sự lãng mạn của tình yêu cá nhân: 
 
“Nồng ngát hương thơm trời xuân mang niềm nhớ
Cho những kiếp người sống cô đơn
ước mong mùa xuân rắc reo khắp nơi trần thế”
 
hoặc “Ly Rượu Mừng” của Phạm Đình Chương năm 1952 đã được sử dụng như một lời tri ân cho đất nước và dân tộc:
 
“Ước mơ hạnh phúc nơi nơi….
Hương thanh bình dâng phơi phới”
 
Hay “Hoa Xuân” năm 1953 của Phạm Duy đã rũ sạch mối ám ảnh của chiến tranh:
 
“Có một đàn em bé ngoài đê
Hát câu i tờ đón Xuân về
……
Người cùng mùa đã thoát vực sâu
Sức reo hoa nở lúc Xuân đầu
……
Có một bầy thôn nữ nhìn hoa
Chúc cho Xuân vui vẻ thái hòa
Có một vài tóc trắng thầm mơ
Ước cho hoa nở mãi không già”
 
Sau khi đất nước bị chia cắt, Phạm Đình Chương, tác giả của Ly Rượu Mừng đã cho ra đời một ca khúc Xuân thật hay và thật buồn để nói lên tâm trạng của những người miền Bắc di cư vào Nam. Bài nhạc Xuân đẹp và u uất này đã không được biểu diễn thường xuyên như những bài hát Tết khác vì lý do dễ hiểu:
 
“Xuân tới, muôn cánh hoa đào bay khắp nơi
Hương khói lan dưới mưa nhẹ rơi phơi phới
Chiều dâng, sầu lâng, trên đường về mịt mùng
Mây Tần ơi cho nhắn bao niềm thương”.
 
(Xuân Tha Hương-Phạm Đình Chương )

Thập niên 60 và 70, cuộc chiến ngày càng leo thang. Từ đó nảy sinh ra một nhánh nhạc Xuân để phản ảnh hoàn cảnh lịch sử mới của đất nước,. Đó là những ca khúc nói về những cái Tết xa nhà của người lính hoặc tâm trạng của những gia đình không được đoàn tụ vào dịp Tết vì hoàn cảnh chiến tranh. Tiêu biểu là “Xuân Này Con Không Về” của Trịnh Lâm Ngân hoặc “Đồn Vắng Chiều Xuân” của Trần Thiện Thanh. Ngoài cái bối cảnh dễ gây xúc động, những bài hát này còn đáng chú ý ở cái chất nhân văn vì trọng tâm của chúng vẫn là những cảm xúc của lòng người trước vẻ đẹp của mùa Xuân và những tình cảm thiêng liêng người lính dành cho ngày Tết. Cái đẹp và tình người đã chiến thắng lòng căm thù và sợ hãi:

 “Con biết bây giờ mẹ chờ tin con 
khi thấy mai đào nở vàng bên nương 
Năm trước con hẹn đầu xuân sẽ về 
nay én bay đầy trước ngõ 
mà tin con vẫn xa ngàn xa “
 
(Xuân này con không về-  Trịnh Lâm Ngân)
 
hoặc
 
“Đồn anh đóng ven rừng mai 
Nếu mai không nở, anh đâu biết xuân về hay chưa 

Phút giây mộng mơ nâng cánh hoa mai 
Nhẹ rớt trên vai đầy, hồn chơi vơi 
Ngỡ giữa xuân vàng, dáng em sang”
 
(Đồn vắng chiều Xuân- Trần Thiện Thanh)

Hình ảnh người chiến sĩ bế súng, vây quanh là hoa vàng rực rỡ, và trong tim không chút hận thù thật là cao thượng! Đó là một bức tranh Xuân với một độ sâu khác thường, chẳng khác nào một thiền sĩ, mặc cho những ràng buộc của thế gian đang vây quanh, đã đủ sự tỉnh táo để vượt qua những cuộc tranh chấp của người đời. Trong bài Phiên Gác Đêm Xuân, nhạc sĩ Nguyễn văn Đông đã viết:
 
“Đón giao thừa một phiên gác đêm
chào Xuân đến súng xa vang rền.
Xác hoa tàn rơi trên báng súng
ngở rằng pháo tung bay
ngờ đâu hoa lá rơi…”


 
Ông tâm sự: “Khi đi vào vùng hỏa tuyến, là chàng trai trẻ độc thân, với một mối tình nho nhỏ thời học sinh mang theo trong ba-lô, tôi bước nhẹ tênh vào cuộc chiến đầu đời.
….. Mùa xuân vẫn có cánh én bay về trên trận địa và hoa sen Tháp Mười vẫn đua nở trong đầm dù bị quần thảo bởi những trận đánh ác liệt. ….. Khi ấy vào buổi tinh mơ của trời đất giao hòa, vạn vật như hòa quyện vào trong tôi, có hồn thiêng của sông núi, có khí phách của tiền nhân. Tôi nghe tâm hồn nghệ sĩ của mình rộn lên những xúc cảm lạ thường, làm nảy lên những cung bậc đầu tiên của bài Phiên Gác Đêm Xuân”
 
Bước qua đầu thế kỷ 21, dòng nhạc Xuân trong nước đã chuyển mình với những ca khúc Xuân mang màu sắc và sự năng động của những thế hệ lớn lên trong hòa bình và khát khao hòa nhập với thế giới bên ngoài. Những bài hát này chẳng những trong sáng và khỏe mạnh (“Hoa Cỏ Mùa Xuân” của Bảo Chấn, “Lắng Nghe Mùa Xuân Về” của Dương Thụ, “Thì thầm mùa Xuân” của Ngọc Châu v.v.) mà còn được trình bày với phong cách hiện đại và kỹ thuật thanh nhạc rất chuyên nghiệp. Tôi cho đó là một sự phát triển tự nhiên và nhất là đáng mừng vì trong sự trẻ trung ta thấy vẫn phảng phất những giai điệu của dân ca. 
 
Xem như nhạc Xuân của Việt Nam đã đi giáp cái chu kỳ của gần một thế kỷ tân nhạc và lúc nào cũng “khóc cười theo phận nước nổi trôi”. Hy vọng khi Tết đến, ta sẽ nghe nhiều bài nhạc Xuân của nhiều thế hệ khác nhau và cảm nhận những mất mát lẫn may mắn của quê hương được gìn giữ trong dòng nhạc rất đặc biệt này.

[footer]

“Mối tình thơ nhạc 10 năm” của Phạm Duy – Lệ Lan

[dongnhacxua.com] xin gởi đến những người yêu dòng nhạc xưa một bài viết của nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân về một trong những bóng hồng đi qua trong đời của nhạc sỹ Phạm Duy: cô Lệ Lan. Và cũng nhờ đó mà chúng ta có được hai bản “Ngày đó chúng mình” và “Tôi đang mơ giấc mộng dài”.

Tôi đang mơ giấc mộng dài (Phạm Duy - Lê Lan). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Tôi đang mơ giấc mộng dài (Phạm Duy – Lê Lan). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

toi-dang-mo-giac-mong-dai--2--pham-duy--le-lan--amnhacmiennam.blogspot.com--dongnhacxua.com

“MỐI TÌNH THƠ NHẠC 10 NĂM” CỦA PHẠM DUY – LÊ LAN
(Nguồn: nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân viết trên Kiến Thức Ngày Nay số 804)

Chuyện này đã đến với tôi rất sớm và từ nhiều mối. Có thể từ những năm cuối của thập niên 50 của thế kỷ trước. Thông tin về chuyện tình này tôi ghi lại từ nhạc sĩ Phạm Duy trong những trường hợp rất tình cờ. Rồi thỉnh thoảng tôi hỏi ông một câu để check lại một sự việc đã đến với tôi từ các nguồn đáng tin cậy khác.

Tôi biết rõ chuyện tình ấy nên sau khi đọc Hồi ký của ông, từ Pháp (1996), qua điện thoại vệ tinh, tôi hỏi ông: “Chuyện tình thơ nhạc của anh với Lệ Lan sâu đậm và ảnh hưởng đến nhiều nhạc phẩm của anh như thế, đã in ấn, tái bản nhiều lần “nhạc Phạm Duy-thơ Lệ Lan” như thế, sao không thấy anh viết gì trong Hồi ký của anh cả vậy?”. Phạm Duy trả lời: “Bà ấy bây giờ sống rất hạnh phúc với một ông chồng biết thương yêu vợ và mấy đứa con ngoan.Tôi không nhắc lại mối tình thơ nhạc với bà làm gì, sợ ảnh hưởng đến hạnh phúc của người mình từng yêu mến suốt mười năm”. Tôi hơi bị sốc nên nói ngay: “Một chuyện có ảnh hưởng đến âm nhạc của anh như thế mà anh không viết thì em sẽ viết”. Phạm Duy biết tính tôi “nói là làm” nên bảo tôi: “Em là người cầm bút ở trong nước, tùy em!”.     
 
Vào khoảng cuối những năm 50 của thế kỷ 20, trên báo Công Dân ở Huế có đăng chuyện một người đi tắm biển Thuận An vô tình nhặt được một tập thơ viết tay, nét chữ con gái mềm mại ký tên Hàn Lệ Lan hay Lâm Lệ Lan gì đó mà tôi không còn nhớ rõ. Bài báo trích đăng mấy bài thơ mới, nói lên một mối tình thơ kín đáo nhưng cũng cháy bỏng. Bài báo làm xôn xao dư luận những người làm thơ ở Huế lúc ấy. Phải chăng vừa xuất hiện thêm một nàng T.T.Kh. nữa? Sau đó một thời gian, tôi mua được mấy nhạc phẩm của Phạm Duy, trong đó có bài ghi: nhạc Phạm Duy – thơ Lệ Lan. Tôi lại nghĩ: Chắc nhạc sĩ Phạm Duy đọc báo thấy thích thơ của Lệ Lan nên phổ nhạc thế thôi. Không ngờ, đây là một “chiêu” để hợp thức hóa chuyện quan hệ tình cảm giữa nhạc sĩ Phạm Duy và nàng thơ bé nhỏ Lệ Lan, mở đầu cho một câu chuyện tình thơ nhạc kéo dài đến 10 năm.
 
pham-duy--le-lan--dongnhacxua.com
Khoảng cuối tháng 7.1965, sau buổi hội thảo “Bắc tiến” do chính phủ Thiệu – Kỳ tổ chức ở Nhà hát Thành phố Sài Gòn, tôi bị nhiều phe phái ủng hộ chính phủ Thiệu – Kỳ rượt đánh. Phạm Duy định đưa tôi về ẩn náu tại nhà một người yêu của anh ở Lái Thiêu. Tôi hỏi người ấy là ai? Anh đáp: “Lệ Lan”. “Trời ơi, Lệ Lan? Người có thơ được anh phổ nhạc lâu nay phải không?”. “Đúng rồi!”. Ngay lúc đó, ông N.T.A. – Bộ trưởng Giao thông vận tải, là bạn Phật tử với tôi – cho người đến Nhà hát tìm và đưa tôi về ẩn náu trong nhà ông trên đường Đoàn Thị Điểm. Tôi chưa kịp về Lái Thiêu, bỏ mất một cơ hội nói chuyện thơ nhạc với Lệ Lan. Gần một năm sau, trong một buổi hát Tâm Ca tại một cơ sở Phật giáo, tôi gặp Lệ Lan. Một người con gái trên hai mươi tuổi, không phấn son mà đẹp như một tài tử xi-nê. Cô có đôi mắt thăm thẳm, đôi môi mọng như lúc nào cũng có thể khóc được. Nhưng gặp người đẹp giữa mùa tranh đấu mất còn nên tôi không chuyện trò gì được ngoài mấy câu thăm hỏi.
 
Sau đó không lâu, tôi về Huế rồi đi kháng chiến. Chuyện tình của Phạm Duy và Lệ Lan nhạt dần trong tâm trí tôi. Mãi đến cuối năm 1987, nhân có nhà báo Lê Quý Biên về nước, Phạm Duy viết thư nhờ tôi “lấy dùm anh một bó thư tình và 3 cuốn thơ tình anh gửi nơi anh Lê Ngộ Châu. Về già, ai cũng muốn ngó vào dĩ vãng. Em giúp cho Biên trả lại cho César nhé!” (Thư tay viết ngày 14.12.1987). Nhưng than ôi, tôi vào TP.HCM gặp ông Lê Ngộ Châu tại nhà riêng ở số 160 Nguyễn Đình Chiểu (Q.3) thì được biết hồi cuối những năm 70, có một họa sĩ thế hệ đàn anh của nhạc sĩ Phạm Duy đến thăm và bảo đã được sự đồng ý của Phạm Duy, hãy cho ông ta mượn đọc “bó thư tình và 3 cuốn thơ tình” nặng đến 5 ký của Phạm Duy. Lê Ngộ Châu là một người rất tin người, nhất là các bậc trưởng thượng từ Hà Nội vào. Tưởng thật, ông mở tủ lấy bó kỷ vật của Phạm Duy – Lệ Lan đưa cho người họa sĩ già. Và từ đó không còn biết người đó ở đâu để đòi lại nữa. Khi nhận được tin Phạm Duy xin nhận lại bó ảnh màu-thư-thơ tình, Lê Ngộ Châu ân hận vô cùng. Phạm Duy biết Lê Ngộ Châu đã bị lừa, nên chỉ trách ông nhẹ dạ chứ không giận.
 
Nhiều lần ông nhờ tôi ra Hà Nội tìm giúp cho ông. Nhưng tôi cũng bó tay. Từ đó, mỗi lần ghé thăm ông Lê Ngộ Châu, hai chúng tôi lại nói chuyện về mối tình 10 năm của Phạm Duy với Lệ Lan. Lê Ngộ Châu đã đọc hết bó thư và thơ của Phạm Duy và Lệ Lan. Ông kể cho tôi nghe và bảo tôi: “Nếu có dịp, có thể viết thành một cuốn tiểu thuyết. Người yêu âm nhạc Việt Nam sẽ rất thú vị khi biết được từ những động thái tình cảm nào giữa đôi tình nhân này mà Phạm Duy phổ thơ hay sáng tác nên những bản nhạc tình trong vòng 10 năm (1959-1969) ấy.”
Tác giả Nguyễn Đắc Xuân (trái) và ông Lê Ngộ Châu.
Tác giả Nguyễn Đắc Xuân (trái) và ông Lê Ngộ Châu.
Rất tiếc, bó thư chưa tìm được và Lê Ngộ Châu cũng đã từ giã cõi trần vào ngày 24.9.2006. Tôi viết bài “Mối tình thơ nhạc…” này một phần để ghi lại chuyện tình hiếm có trong đời sống văn học nghệ thuật Việt Nam, một phần để hiểu sâu sắc hơn âm nhạc của Phạm Duy và một phần cũng để chia sẻ bớt nỗi bận tâm vì làm mất kỷ vật của bạn ông chủ báo Bách Khoa Lê Ngộ Châu – người mà thế hệ của tôi ở miền Nam rất quý trọng.
 
Tình mẹ từ chối lại rơi vào…
 
Sống ở Hà Nội trong độ tuổi đôi mươi, chàng nhạc sĩ “hát rong” Phạm Duy có yêu một người con gái Hà thành. Người đẹp, lại xuất thân trong một gia đình khá giả, nên Phạm Duy chỉ được yêu thôi chứ chẳng được gì. Về sau, người đẹp lập gia đình, có con, hạnh phúc. Đến sau năm 1954, Phạm Duy được biết người đẹp đã di cư vào Sài Gòn; vắng bóng chồng, người đẹp chỉ sống với con. Nhớ người xưa, Phạm Duy tìm đến thăm rồi đàn hát thổ lộ tâm sự về những điều ngày xưa không bày tỏ với nhau được. Người đẹp rất quý trọng người bạn có chút tình cũ, nhưng luôn luôn giữ một khoảng cách. Nhiều lần Phạm Duy muốn lấp cái khoảng cách đó bằng âm nhạc, bằng tâm sự, bằng những lá thư tình, nhưng vô hiệu.
 
Không ngờ, tất cả những tình cảm của Phạm Duy dành cho người đẹp đã làm rung động trái tim của cô con gái còn rất nhỏ của nàng. Không ai ngờ tình yêu dành cho mẹ, bị mẹ từ chối lại rơi vào con – cô bé Lan. Lan đang tập tễnh làm thơ, bắt được nguồn cảm hứng yêu người bạn của mẹ, cảm thấy hạnh phúc vô cùng. Lan thể hiện sự khát khao yêu thương vào thơ và kín đáo gởi đến người bạn của mẹ. Nhận được tình yêu của cô bé – con gái của bạn mình – qua thơ, Phạm Duy vô cùng xúc động và bất ngờ.
 
Cho đến năm 1959, đã có hàng chục người đẹp “lao tới” và không bao giờ quên nhau, nhưng chưa từng có người nào trẻ và xuất hiện trong một hoàn cảnh “trớ trêu” đến như thế. Phạm Duy rất đắn đo, nhưng rồi ông bị cô bé “tấn công” bằng thơ liên tục. Dần dần, hình ảnh cô bé – con của người yêu cũ mờ dần và hiện lên trong tâm trí ông hình ảnh tác giả của những bài thơ tình. Yêu Lệ Lan làm cho tâm hồn ông trẻ lại, thăng hoa; ông được sống với một mối tình thơ nhạc vô cùng lý tưởng như ông viết trong Hồi ký tập 3, tr. 247: “… cuối tuần lái xe đi đón người tình rồi chúng tôi ngồi trong xe hơi hay trên một bãi cỏ hoang ở vùng ngoại ô, nói với nhau những chuyện cao xa, thơ mộng”. Ông ghi lại sự trong sáng, hạnh phúc êm đềm đó trong bài Ngày đó chúng mình:     
 
Ngày đó có em đi nhẹ vào đời
Và mang theo trăng sao đến với lời thơ nuối
Ngày đó có anh mơ lại mộng ngời
Và xe tơ kết tóc – giam em vào lòng thôi
Ngày đôi ta ca vui tiếng hát với đường dài
Ngâm khẽ tiếng thơ, khơi mạch sầu lơi
Ngày đôi môi đôi môi đã quyết trói đời người
Ôi những cánh tay đan vòng tình ái
Ngày đó có ta mơ được trọn đời
Tình vươn vai lên khơi – tới chín trời mây khói
Ngày đó có say duyên vượt biển ngoài
Trùng dương ơi! Giữ kín cho lâu đài tình đôi […]
 
Được Phạm Duy yêu, được trân quý, Lệ Lan vô cùng hạnh phúc. Lệ Lan là nguồn cảm hứng cho âm nhạc Phạm Duy. Ngược lại, tình yêu của Phạm Duy cũng là nguồn cảm hứng cho thơ Lệ Lan. Lệ Lan năn nỉ cuộc đời đừng có “lay” động cô, đừng làm gián đoạn giấc mơ hạnh phúc tuyệt vời mà cô đang trải qua:
 
Tôi đang mơ giấc mộng dài
Đừng lay tôi nhé cuộc đời chung quanh
Tôi đang nhìn thấy màu xanh
Ở trên cây cỏ rất lành rất thơm
Tôi đang nhìn thấy màu hồng
Của tôi thay đổi luôn luôn theo trời
Hoàng hôn màu đỏ mây tươi
Bình minh nắng trắng ấm trôi vào lòng
Những vì sao tím rất trong
Mảnh trăng vàng rỡ chờ mong tôi nhìn
Tôi đang nhìn thấy trong tim
Tình yêu bay những con chim tuyệt vời
Đừng lay tôi nhé cuộc đời
Tôi còn trẻ lắm cho tôi mơ mòng.
 
Nhận được bài Năn nỉ, Phạm Duy phổ nhạc ngay, lấy câu thơ mở đầu làm tựa đề ca khúc Tôi đang mơ giấc mộng dài. Lời thơ rất đẹp, Phạm Duy chỉ sửa và thêm bớt một vài từ, âm nhạc dạt dào, thanh thoát, mê ly. Thật là một bài ca hạnh phúc! Đây là ca khúc phổ thơ Lệ Lan được nhạc sĩ Phạm Duy ưng ý nhất.
[…]
Tôi đang mơ giấc mộng dài
Đừng lay tôi nhé, cuộc đời chung quanh
Tôi đang nhìn thấy màu xanh ở trên cây cành trôi xuống thân mình
Tôi đang nhìn thấy màu hồng ở khắp nẻo đường nhẹ thấm vào hồn
Từ bình minh tươi mát, về hoàng hôn thơm ngát
Làn gió đưa hương đời vào chứa chan lòng tôi
Tôi nghe từ cõi đời vui vượt qua đêm dài lên tới sao trời
Tôi nghe từ cõi lòng người lời nói bồi hồi tìm kiếm ngọt bùi
Và nhìn thấy trong tim, tình yêu nở những con chim
Nở những con chim tuyệt vời
Đừng lay tôi nhé cuộc đời
Tôi còn trẻ dại cho tôi mơ mòng.
 
Bài thơ của Lệ Lan rất dễ thương, thơ ngây, hồn nhiên. Được Phạm Duy phổ nhạc, biến nó thành một tác phẩm hay, thoang thoảng một chút triết lý của một chuyện tình đẹp. Một cô bé mới tập tễnh làm thơ bỗng dưng trở thành một tác giả đứng ngang hàng với một nhạc sĩ hàng đầu trong xã hội lúc đó, Lệ Lan không khỏi mê mẩn tinh thần. Lệ Lan mê nhạc Phạm Duy, mê chuyện tình giữa bà mẹ và người nhạc sĩ tài hoa và mê Phạm Duy là người đã thực sự tung Lệ Lan bay bổng lên giữa “chín trời mây khói”. Với một tâm hồn lãng mạn, yêu thơ và được yêu như thế, Lệ Lan có thể hy sinh tất cả, bất chấp tuổi tác, bất chấp chuyện san sẻ tình cảm của mẹ để lấy cuộc tình này. Và mối tình thơ nhạc ấy tiếp tục như thế nào và có bao nhiêu tác phẩm âm nhạc nữa ra đời?
 
Nguyễn Đắc Xuân (KTNN số 804)

[footer]

Tình Cầm (Phạm Duy – Hoàng Cầm)

Người yêu nhạc Phạm Duy chắc hản không xa lạ với một bản tình ca nhẹ nhàng lãng mạn viết cho những người yêu nhau ‘không còn trẻ’. Thế nhưng ít ai biết nhạc phẩm này Phạm Duy lấy cảm hứng từ bài thơ ‘Nếu anh còn trẻ’ mà thi sỹ Hoàng Cầm viết năm 1941 khi mới 17 tuổi.  Nhạc sỹ Phạm Duy có một tình bạn thân thiết với thi sỹ Hoàng Cầm khi cả hai tham gia kháng chiến chống Pháp vào khoảng năm 1947. Mãi 40 năm sau, độ năm 1984-1985 ở lứa tuổi ‘không còn trẻ’, nhà nhạc sỹ của chúng ta mới cho ra đời bản ‘Tình cầm’ mà  [dongnhacxua.com] hân hạnh giới thiệu hôm nay.

NẾU ANH CÒN TRẺ
(Nguồn: facebook của nhạc sỹ / bác sỹ Phạm Anh Dũng)

Nếu anh còn trẻ như năm ấy
Quyết đón em về sống với anh
Những khoảng chiều buồn phơ phất lại
Anh đàn em hát níu xuân xanh

Nhưng thuyền em buộc sai duyên phận
Anh lụy đời quên bến khói sương
Năm tháng… năm cung mờ cách biệt
Bao giờ em hết nợ Tầm Dương?

Nếu có ngày mai anh trở gót
Quay về lãng đãng bến sông xa
Thì em còn đấy hay đâu mất?
Cuối xóm buồn teo một tiếng gà…”

(Nếu Anh Còn Trẻ/thơ Hoàng Cầm)

Trên đời này có biết bao nhiêu người gặp nhau, hay gặp lại nhau, yêu nhau muộn màng lúc đã… già? Muộn màng!
Bài thơ lãng mạn do thi sĩ Hoàng Cầm viết năm 1941, diễn tả nỗi buồn vì một cuộc tình dở dang của người không còn… trẻ nữa.
Có nhiều chữ, nhiều câu thật tuyệt vờị Lấy vài thí dụ giản dị trong bài, để xem tài làm thơ của Hoàng Cầm.

Mở đầu bài thơ, chữ “Nếu” cho thấy đây một chuyện mong ước, giả dụ. Đọc tiếp cho hết câu đầu, “anh còn trẻ như năm ấy”, sẽ thấy rõ đó chỉ là một chuyện không thể có thực.
Nhưng, chữ “Quyết” ở đầu câu thứ hai cho thấy dù chỉ là chuyện giả tưởng, ý tưởng người đàn ông vẫn mạnh mẽ, khi có ý “đón em về sống”.
Có một chữ hơi lạ là “khoảng” của câu thứ ba. Thường người ta sẽ viết là “buổi”. Nhưng đọc “khoảng chiều” nghe thấm thía hơn là “buổi chiều”. Cái cảm giác khi đọc “khoảng chiều” sẽ là những lúc hoàng hôn về, không được trọn vẹn được thành cả buổi chiều, mà chỉ có những khoảng thời gian của những buổi chiều mà thôi. Kết quả làm cả câu thơ buồn hơn, hay hơn.
Chữ “níu” ở trong “níu xuân xanh” phải nói là rất hay, cho thấy tình trạng gần như là tuyệt vọng của mối tình… già, dù đây vẫn chỉ là nói chuyện giả tưởng. Mặc dù chuyện đón người yêu về chỉ là chuyện không có thực, mà tình yêu đã mong manh như vậy rồi!

Đoạn cuối của bài thơ, câu đầu cũng bắt đầu bằng “Nếu”, do đó cũng chỉ là chuyện giả dụ. Tuy vậy, khi đọc tiếp có “ngày mai anh trở gót” thì thấy câu chuyện lại có thể xẩy ra trong tương lai và không phải là chuyện không thật như ở đoạn đầu bài thơ.
Nhưng, lúc đó người “lãng đãng” có thể hiểu là người đàn ông đã mất hồn vì mất… tình đi lang thang khắp nơi, rồi tìm về “bến sông xa” vắng với cái buồn cô đơn.

Câu áp chót của bài thơ là một câu hỏi, “em còn đấy hay đâu mất?”. Và, chữ “Thì” đặt khéo léo ở đầu câu làm cả câu mạnh hẳn lên với ý nghĩa thậm xưng hơn nhiều. Câu thơ, câu hỏi nhưng có vẻ đã biết câu trả lời rồi, gần như thành một nỗi niềm trách móc, ai oán.

Câu cuối cùng của bài thơ, thật hay, đã làm bật ra được cái cảm giác buồn cô độc của thi sĩ. Hai chữ “buồn teo” là buồn hoang vắng. “Cuối xóm buồn teo một tiếng gà” nhấn mạnh đến sự vắng vẻ và buồn. Hoàng Cầm viết “một tiếng gà”, một tiếng động chứ không phải tiếng gáy của gà. Chỉ có một tiếng động nhỏ của một con gà, không có tiếng thứ haị Thi sĩ Hoàng Cầm không viết là một đàn gà, không viết là hai con gà. Đọc câu thơ sẽ có cảm giác chỉ có một con gà mà thôị Tiếng động nhỏ của một con gà từ cuối xóm còn vọng lên nghe thấy được cho thấy xóm buồn vắng vẻ như thế nào!

Mãi đến năm 1985, tức là 44 năm sau, nhạc sĩ Phạm Duy mới phổ nhạc bài thơ. Chắc lúc đó, tuổi đã về chiều, Phạm Duy mới cảm được bài thơ? Ông cho biết bài thơ không có tựa đề và đặt tên bài hát là Tình Cầm. Thật ra, bài thơ có tên Nếu Anh Còn Trẻ (99 Tình Khúc – Thơ Hoàng Cầm, trang 175). Có lẽ, đề tựa bài thơ chỉ được đặt về sau này và Phạm Duy đã không hề biết đến.

Bài thơ tình Nếu Anh Còn Trẻ đã trở thành bài nhạc Tình Cầm.
Sau khi được phổ nhạc, âm giai chính là Sol Trưởng, lời bài hát trở thành như sau:

Nếu anh còn trẻ như năm cũ…
Quyết đón em về sống với anh!
Những khi chiều vàng phơ phất đến…
Anh đàn em hát níu xuân xanh…”

Bốn câu khá hay trong đoạn thứ hai của bài hát, không có trong bài thơ, do chính Phạm Duy “liều lĩnh phang” (chữ của Phạm Duy dùng khi viết về bài hát này) thêm vào:

Có mây bàng bạc gây thương nhớ
Có ánh trăng vàng soi giấc mơ…
Có anh ngồi lại so phím cũ
Mong chờ em hát khúc xuân xưa!!!

Đoạn thứ ba, điệp khúc, lời khác hẳn bài thơ và nhạc chuyển trùng hẳn xuống, buồn hơn vì đổi qua âm giai Sol Thứ:

Nhưng thuyền em buộc trên sông hận…
Anh chẳng quay về với trúc tơ!
Ngày tháng tỳ bà vương ánh nguyệt
Mộng héo bên song vẫn đợi chờ!

Đoạn kết, nhạc trở về với Sol Trưởng, lại rộng rãi hơn nhưng có lời hát với ý tưởng khác đoạn thơ nguyên thủy:

Nếu có ngày nào em quay gót
Lui về thăm lại bến thu xa
Thì đôi mái tóc không còn xanh nữẳ
Mây bạc trăng vàng vẫn thướt tha”

(Tình Cầm/thơ Hoàng Cầm, nhạc Phạm Duy)

Có nhạc điệu uyển chuyển, thật hay, bài tình ca Tình Cầm là một trong những bài nhạc được gọi là Hoàng Cầm Ca của Phạm Duy.

Đó là chuyện bài thơ nhạc Nếu Anh Còn Trẻ-Tình Cầm.
Để kết thúc, lại nói thêm một chút chuyện già trẻ ở ngoài đờị Thế nào là già? Như thế nào là trẻ? Vấn đề này chỉ tương đối thôi và tùy theo cảm quan của con người mà thôi.
Thật ra có nhiều người nhiều người trông qua có vẻ trẻ nhưng tình cảm, bên trong lại không trẻ chút nào hết và có những người khác, bên ngoài nhìn thấy là già, mà tâm hồn vẫn trẻ trung.
Những “người thơ” có đầu óc, được tâm hồn như Hoàng Cầm hay Phạm Duy, có thể nói không có tuổi và vẫn trẻ mãi mãi…

Phạm Anh Dũng
Santa Maria, California USA

CHÚ THÍCH:

Tầm Dương và tỳ bà.
Tỳ bà tuy là nhạc cụ cổ truyền của VN nhưng có nguồn gốc từ đàn pipa của Trung Hoa.
Tầm Dương là tên một con sông bên Trung Hoa.
Câu thơ của Hoàng Cầm có chữ “Tầm Dương” và do đó câu của Phạm Duy có chữ “tỳ bà” là do câu chuyện sau:
Tầm Dương là một con sông thuộc tỉnh Giang Tây, Trung Quốc chảy qua huyện Cửu Giang.
Vào đời Đường, nhà thơ Bạch Cư Dị đang làm quan ở kinh đô, bị giáng chức về làm Tư Mã quận Cửu Giang (tức quận Giang Châu).
Ở đây, trong một lần tiễn bạn ở bến sông Tầm Dương, nhà thơ gặp một cô gái giang hồ trên sông, cô gái vốn là một tay đánh đàn tỳ bà nổi tiếng ở kinh đô Tràng An lưu lạc về.
Nghe đàn tỳ bà, lại nghe cô gái kể lể về cảnh ngộ rũi ro, nhà thơ cảm khái làm bài “Tỳ Bà Hành” nổi tiếng được truyền tụng đến ngày nay và đã được Phan Huy ích dịch ra tiếng Việt.
Trong Chinh Phụ Ngâm (nguyên tác Hán Văn của Đặng Trần Côn dịch sang tiếng Việt do Phan Huy Ích hay Đoàn Thị Điểm, đến nay vẫn không biết chắc chắn là người nào) có câu: Bến Tầm Dương chàng còn ngoảnh lại. Chốn Tiêu Tương thiếp hãy trông theo…
Bài thơ Tỳ Bà Hành của Phan Huy Ích dịch thơ Bạch Cư Dị cũng được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc thành một bài nhạc (khác).

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Nếu Anh Còn Trẻ (Tập thơ 99 Tình Khúc-Hoàng Cầm, trang 175-Văn Học xuất bản năm 1996 tại Việt Nam)
2. Tình Cầm (Tập nhạc Thấm Thoát Mười Năm-Phạm Duy, trang 75-Hội Văn Hóa Việt Nam tại Bắc Mỹ, Tủ Sách Cành Nam và Tạp Chí Xác Định xuất bản năm 1985 tại Hoa Kỳ)
3. Về Những Bài Gọi Là Hoàng Cầm Ca (bài Phạm Duy viết trong Tập San Hợp Lưu số 8 tháng Chạp, 1992 và tháng Giêng, 1993

Áo anh sút chỉ đường tà (Phạm Duy – Hữu Loan)

Trong dòng thi ca Việt Nam, có lẽ bài thơ “Màu tím hoa sim” của Hữu Loan là bài thơ được phổ nhạc nhiều nhất. Theo ý kiến cá nhân của chúng tôi, thành công nhất và cũng  giữ được tính bi tráng của bài thơ nhiều nhất là bản “Áo anh sút chỉ đường tà” của nhạc sỹ Phạm Duy. 

Áo anh sút chỉ đường tà (Phạm Duy – Hữu Loan) .Ảnh: hcmutrans.edu.vn

TAO NGỘ HOA SIM
(Cập nhật 18.08.2014 | Nguồn: ThanhNien.com.vn)

Màu tím hoa sim – một kiệt tác của nhà thơ Hữu Loan đã làm lay động biết bao tâm hồn. Được Phạm Duy phổ nhạc, bài thơ mang tên mới Áo anh sứt chỉ đường tà, và trở thành một trong những ca khúc bi hùng nhất về người lính.

 Nhà thơ Hữu Loan (trái) và nhạc sĩ Phạm Duy - Ảnh: nhân vật cung cấp

Nhà thơ Hữu Loan (trái) và nhạc sĩ Phạm Duy – Ảnh: nhân vật cung cấp

Nhạc sĩ Phạm Duy lúc vui vẫn kể rằng, sinh thời bố ông – nhà văn Phạm Duy Tốn thường viết truyện cười châm biếm các thi sĩ nửa mùa. Cũng vì có người bố như vậy mà “đời tôi, có những khi nổi hứng định làm thi sĩ thì tôi vội vàng bỏ ý định đó ngay. Chỉ sợ ông bố đội mồ sống dậy đưa mình vào truyện tiếu lâm!”. Phạm Duy chia sẻ, học tập bố mình, ông cũng có thể gọi là khắt khe trong việc nhận thức cái hay cái đẹp, đặc biệt là đối với thơ ca.

Bởi vì cái sự không dễ dãi ấy nên nếu có lần rung động, thì đó chắc chắn phải là sự rung động tuyệt đối. Mỗi bài thơ Phạm Duy tâm đắc, ông đều muốn phổ thành nhạc. Trong số những đóng góp to lớn cho nền âm nhạc dân tộc, có khoảng hơn 300 tác phẩm được ông phổ từ thơ. Nói nhạc khúc nâng cao lời thơ ý thơ để diễn tả tài năng thiên phú của Phạm Duy quả thật chẳng ngoa. Một số ca khúc phổ thơ rất thành công của ông như: Ngậm ngùi, Tiếng sáo thiên thai, Áo anh sứt chỉ đường tà, Đưa em tìm động hoa vàng, Em lễ chùa này, Bên kia sông Đuống, Còn chút gì để nhớ… tự thân chúng vốn dĩ đã là những bài thơ nổi tiếng, nhưng khi đặt lên khuông nhạc của Phạm Duy thì càng thêm phần thăng hoa.

Phạm Duy yêu họ. Họ, Hoàng Cầm, Lưu Trọng Lư, Quang Dũng, Phạm Thiên Thư, Hữu Loan… lần lượt ghi dấu vào những cột mốc cuộc đời lẫn âm nhạc của Phạm Duy một cách hiển nhiên và gần gũi

Vậy, bên cạnh khả năng lĩnh hội và kỹ thuật điêu luyện, điều gì tạo ra sự giao thoa nghệ thuật ấy? Theo lời Phạm Duy, trừ những người đã khuất từ rất lâu: đại thi hào Nguyễn Du, Hàn Mặc Tử, Bích Khê…, giữa ông và hầu hết cha đẻ của các bài thơ ông phổ nhạc đều nảy sinh mối duyên nào đó, rồi trở thành tri kỷ. Có người gặp gỡ trong kháng chiến, có người qua sinh hoạt nghệ thuật mà quen biết, có người lại tìm nhau vì cảm mến lời thơ tiếng nhạc… Phạm Duy yêu họ. Họ, Hoàng Cầm, Lưu Trọng Lư, Quang Dũng, Phạm Thiên Thư, Hữu Loan… lần lượt ghi dấu vào những cột mốc cuộc đời lẫn âm nhạc của Phạm Duy một cách hiển nhiên và gần gũi.

Năm 2005, nhạc sĩ Phạm Duy trở về quê hương sau ba mươi năm xa cách…

Vào một ngày mưa gió năm 2006, nhân chuyến du lịch trên đường cái quan, Phạm Duy đi ngang qua tỉnh Thanh Hóa. Hỏi thăm mới biết, nhà thơ Hữu Loan còn sống tại làng nhỏ Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn. Ông liền đi xe ôm tìm đến. Trước mặt Phạm Duy, anh cán bộ trong ủy ban kháng chiến ngày ngày cưỡi ngựa đi công tác khắp nơi hôm nào giờ đã là cụ già tóc bạc. Hồi đó ở chiến khu, hai người vẫn hay hàn huyên chuyện văn chương non nước. Một nửa thế kỷ trôi đi, cả hai gặp lại nhau trong hoàn cảnh gần đất xa trời (lúc ấy Hữu Loan đã hơn 90 tuổi), chỉ kịp ôn lại dăm ba câu chuyện cũ rồi chia tay… Cảm xúc về buổi gặp gỡ cuối cùng với nhà thơ Màu tím hoa sim vẫn đọng mãi nơi tiềm thức người nhạc sĩ: “Lúc đó tôi thấy anh Hữu Loan đã hơn 90 tuổi mà hãy còn khỏe mạnh thì mừng lắm”.

Phạm Duy nhớ lại: “Cuối năm 1947, tôi từ Việt Bắc (Cao-Bắc-Lạng) xuống Khu 3 (Chợ Đại, Cống Thần) rồi có ý định đi theo Trần Văn Giàu vào Nam chiến đấu. Nhưng khi vào tới Thanh Hóa (Khu 4 – làng Quần Tín) thì tôi gặp tướng Nguyễn Sơn và ở lại đó, gia nhập Ban Văn nghệ của Trung đoàn 304. Tại đây tôi gặp Hữu Loan…

Đầu húi cua, tiếng nói lớn, và khi ngủ thì ngáy như sấm, vậy mà khi làm thơ thì toàn thơ buồn. Anh vừa góa vợ và có một bài thơ rất buồn thương là bài Màu tím hoa sim mà nhiều người đã phổ nhạc, trong đó có tôi (có hai người khác phổ nhạc nữa là: Dzũng Chinh với tên Những đồi hoa sim và Anh Bằng thì lấy tên là Chuyện hoa sim). Nhưng đến khi tôi phổ nhạc xong bài thơ thì chính quyền hồi đó (1948) cho rằng bài thơ tiêu cực quá, nên tôi không muốn phổ biến bài hát đó. Sau này, khi tôi vào Sài Gòn sinh sống, tới năm 1971 tôi mới chính thức tung ra bài hát. Khi đó, tôi đặt tên cho bài hát là Áo anh sứt chỉ đường tà.

Theo tôi, bài Áo anh sứt chỉ đường tà tuy có vẻ buồn thương, nhưng không bi lụy mà bi hùng! Tôi nghĩ, bổn phận của người nghệ sĩ trong thời chiến phải biến cái bi thành cái hùng. Bài thơ của anh Hữu Loan có cả hai yếu tố đó và trong bản nhạc người nghe cũng nghe được cả hai tiếng: tiếng hùng và tiếng bi. Tôi soạn thành một “ca khúc” dài tới 7 đoạn gồm khoảng 80 khuông.

Vì là một truyện ca dài, bài hát được chia ra 6 đoạn, nói tới chuyện một anh chiến binh từ mặt trận trở về, cưới xong người con gái anh yêu, rồi lại phải trở về quân ngũ. Ở chiến trường, nhiều khi nhớ vợ, lo lắng cho vợ. Ở quê nhà, bỗng không may người vợ trẻ bị chết đuối, anh không được gặp mặt vợ. Lòng anh rất buồn nhưng vẫn hăng hái theo đoàn chiến sĩ ra đi. Trên đường hành quân, qua những đồi sim, anh nghe thấy có tiếng văng vẳng ru: À ơi, Áo anh sứt chỉ đường tà, vợ anh chết sớm, mẹ già chưa khâu…”.

Trích Vang vọng một thời – Mùa hè, 2012
Hiếu Dũng – Ngân Vi

[footer]

Bông hồng cài áo (Phạm Thế Mỹ)

Chúng ta đang trải qua những ngày giữa tháng 7 âm lịch, tức là quãng thời gian của mùa Vu Lan báo hiếu. Nhân dịp này  Dòng Nhạc Xưa xin trân trọng gởi đến quý vị yêu nhạc xưa bản ‘Bông hồng cài áo’.  Cảm tác từ đoản văn cùng tên của Thiền sư Nhất Hạnh, nhạc sỹ Phạm Thế Mỹ đã cho ra đời một giai điệu rất đẹp trên nền ca từ mượt mà như những vần thơ. Có thể nói ‘Bông hồng cài áo’ là bản nhạc nổi tiếng thứ nhì sau ‘Lòng mẹ’ của Y Vân trong số những bài hát về tình mẫu tử.

Bông hồng cài áo (Phạm Thế Mỹ). Ảnh: vnguitar.net
Bông hồng cài áo (Phạm Thế Mỹ). Ảnh: vnguitar.net
bong-hong-cai-ao--2--pham-the-my--vnguitar.net--dongnhacxua.com.jpg

ĐOẢN VĂN ‘BÔNG HỒNG CÀI ÁO’ CỦA THIỀN SƯ NHẤT HẠNH
(Nguồn: gdptquangducsaigon.org)

Để dâng mẹ, và để làm quà Vu Lan cho những người nào có diễm phúc còn mẹ

Medford, tháng tám 1962.

bong-hong-cai-ao--thien-su-nhat-hanh--gdptquangducsaigon.org--dongnhacxua.com

Ý niệm về mẹ thường không thể tách rời ý niệm về tình thương. Mà tình thương là một chất liệu ngọt ngào, êm dịu và cố nhiên là ngon lành. Con trẻ thiếu tình thương thì không lớn lên được. Người lớn thiếu tình thương thì cũng không lớn lên được. Cằn cỗi, héo mòn. Ngày mẹ tôi mất, tôi viết trong nhật ký : tại nạn lớn nhất đã xẩy ra cho tôi rồi! Lớn đến cách mấy mà mất mẹ thì cũng như không lớn, cũng cảm thấy bơ vơ, lạc lõng, cũng không hơn gì trẻ mồ côi. Những bài hát, những bài thơ ca tụng tình mẹ, bài nào cũng dễ hát, cũng hay. Người viết, dù không có tài ba, cũng có rung cảm chân thành; người hát ca, trừ là kẻ không có mẹ ngày từ thưở chưa có ý niệm, ai cũng cảm động khi nghe nói đến tình mẹ, đâu cũng có, thời nào cũng có. Bài thơ mất mẹ mà tôi thích nhất, từ hồi nhỏ, là một bài thơ rất giản dị. Mẹ đang còn sống, nhưng mỗi khi đọc bài ấy thì sợ sệt, lo âu… sợ sệt lo âu cho một cái gì còn xa, chưa đến, nhưng chắc chắn phải đến :

Năm xưa tôi còn nhỏ
mẹ tôi đã qua đời!
lần đầu tiên tôi hiểu
thân phận trẻ mồ côi.

Quanh tôi ai cũng khóc
Im lặng tôi sầu thôi
để dòng nước mắt chảy
là bớt khổ đi rồi…

Hoàng hôn phủ trên mộ
Chuông chùa nhẹ rơi rơi
Tôi thấy tôi mất mẹ
mất cả một bầu trời.

Một bầu trời thương yêu dịu ngọt, lâu quá mình đã bơi lội trong đó, sung sướng mà không hay, để hôm nay bừng tỉnh thì thấy đã mất rồi. Người nhà quê Việt Nam không ưa nói cách cao kỳ. Nói rằng bà mẹ già là một kho tàng của yêu thương, của hạnh phúc thì cũng đã là cao kỳ rồi. Nói mẹ già là một thứ chuối, một thứ xôi, một thứ đường ngọt dịu, người dân quê đã diễn tả được tình mẹ một cách giản dị vừa đúng mức:

Mẹ già như chuối Ba Hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau.

Ngon biết bao nhiêu! Những lúc miệng vừa nhạt sau một cơn sốt, những lúc như thế thì không có món ăn gì có thể gợi được khẩu vị của ta. Chỉ khi nào mẹ đến, kéo chăn đắp lại ngực cho ta, đặt bàn tay (Bàn tay? Hay là tơ trời đâu la miên ? ) trên trán nóng ta và than thở “khổ chưa, con tôi”, ta mới thấy cảm thấy đầy đủ, ấm áp, thấm nhuần chất ngọt của tình mẹ, ngọt thơm như chuối ba hương, đường mía lau, xôi nếp một ấy, không bao giờ cùng tận. Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Nước trong nguồn chảy ra thì bất tuyệt. Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm thương yêu. Mẹ là giáo sư dạy về thương yêu, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời. Không có mẹ, tôi sẽ không biết thương yêu. Nhờ mẹ mà tôi biết được thế nào là tình chúng sinh; nhờ mẹ mà tôi có được chút ý niệm về đức từ bi. Vì mẹ là gốc của tình thương, nên ý niệm mẹ lấn trùm ý niệm thương yêu của tôn giáo vốn cũng dạy về tình thương. Đạo Phật có đức Quán Thế Âm, tôn sùng dưới hình thức mẹ. Em bé vừa mở miệng khóc thì mẹ đã chạy tới bên nôi. Mẹ hiện ra như một thiên thần dịu hiền, làm tiêu tan khổ đau lo âu. Đạo Chúa có đức Mẹ, Thánh nữ đồng trinh Maria. Trong tín ngưỡng bình dân Việt có Thánh Mẫu Liễu Hạnh, cũng dưới hình thức mẹ. Bởi vì chỉ cần nghe đến danh từ mẹ, ta đã thấy lòng tràn ngập yêu thương rồi. Mà từ yêu thương đi tới tín ngưỡng và hành động thì không xa, chỉ mấy bước.

Tây phương không có ngày Vu Lan nhưng cũng có Ngày Mẹ (Mother’s Day) mồng mười tháng năm. Tôi nhà quê không biết cái tục ấy. Có một ngày tôi đi với thầy Thiên Ân, tới nhà sách ở khu Ginza, Đông Kinh, nửa đường gặp mấy người sinh viên Nhật, bạn của thầy Thiên Ân. Có một cô sinh viên hỏi nhỏ thầy Thiên Ân một câu, rồi lấy trong sắc ra một bông hoa cẩm chướng màu trắng cài vào khuy áo tràng của tôi. Tôi lạ lùng, bỡ ngỡ, không dám hỏi, cố giữ vẻ tự nhiên, nghĩ rằng có một tục lệ chi đó. Sau khi họ nói chuyện xong, chúng tôi vào nhà sách, thầy Thiên Ân mới giảng cho tôi biết đó là Ngày Mẹ, theo tục Tây phương. Nếu anh còn mẹ, anh sẽ được cài một bông hoa màu hồng trên áo, và anh sẽ tự hào được còn mẹ. Còn nếu anh mất mẹ, anh sẽ được cài trên áo một bông hoa trắng. Tôi nhìn lại bông hoa trắng trên áo mà bỗng thấy tủi thân. Tôi cũng mồ côi như bất cứ một đứa trẻ vô phúc, khốn nạn nào; chúng tôi không có được cài trên áo một bông hoa màu hồng. Người được hoa hồng sẽ thấy sung sướng nhớ rằng mình còn mẹ, và sẽ cố gắng để làm vui lòng mẹ, kẻo một mai người khuất núi, có khóc than cũng không còn kịp nữa. Tôi thấy cái tục cài hoa đó đẹp và nghĩ rằng mình có thể bắt chước, áp dụng trong ngày báo hiếu Vu Lan.

Mẹ là một dòng suối, một kho tàng vô tận, vậy mà lắm lúc ta không biết, để lãng phí một cách oan uổng. Mẹ là một món quà lớn nhất mà cuộc đời tặng cho ta, những kẻ đã và đang có mẹ. Đừng có đợi đến khi mẹ chết rồi , mới nói : “trời ơi, tôi sống bên mẹ suốt mấy mươi năm trời mà chưa có lúc nào ‘nhìn kỹ’ được mặt mẹ.” Lúc nào cũng chỉ nhìn thoáng qua. Trao đổi vài câu ngắn ngủi. Xin tiền ăn quà. Đòi hỏi mọi chuyện. Ôm mẹ mà ngủ cho ấm. Giận dỗi. Hờn lẫy. Gây bao nhiêu chuyện rắc rối cho mẹ phải lo lắng, ốm mòn, thức khuya, dậy sớm vì con. Chết sớm cũng vì con. Để mẹ phải suốt đời bếp núc, vá may, giặt rửa, dọn dẹp. Và để mình bận rộn suốt đời, lên xuống ra vào lợi danh. Mẹ không có thì giờ nhìn kỹ con. Và con không có thì giờ nhìn kỹ mẹ. Để khi mẹ mất, mình có cảm nghĩ : thật như là mình chưa bao giờ thật có ý thức rằng mình có mẹ.

Chiều nay khi đi học về, hoặc khi đi làm việc ở sở về, em hãy vào phòng mẹ với một nụ cười thật trầm lặng và thật bền. Em sẽ ngồi xuống bên mẹ. Sẽ bắt mẹ dừng kim chỉ, mà đừng nói năng chi. Rồi em sẽ nhìn mẹ thật lâu, thật kỹ để trông thấy mẹ, và để biết rằng mẹ đang sống và đang ngồi bên em. Cầm tay mẹ, em sẽ hỏi một câu ngắn làm mẹ chú ý. Em hỏi : “Mẹ ơi, mẹ có biết không ?” Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên, và sẽ hỏi em, vừa cười vừa hỏi : “biết gì?” Vẫn nhìn vào mắt mẹ, vẫn giữ nụ cười trầm lặng và bền, em sẽ hỏi tiếp : “mẹ có biết là con thương mẹ không ?” Câu hỏi sẽ không cần được trả lời. Cho dù người lớn ba bốn mươi tuổi, cũng có thể hỏi một câu như thế, bởi vì người là con của mẹ. Mẹ và em sẽ đều trở thành bất diệt và ngày mai, mẹ mất, em sẽ không hối hận, đau lòng.

Ngày Vu Lan ta nghe giảng và đọc sách nói về ngài Mục Liên và về sự hiếu để. Công cha, nghĩa mẹ. Bổn phận làm con. Ta lạy Phật cầu cho mẹ sống lâu. Hoặc lạy mười phương tăng chú nguyện cho mẹ được tiêu diêu nơi cực lạc, nếu mẹ đã mất. Con mà không có hiếu là con bỏ đi. Nhưng hiếu thì cũng do tình thương mà có; không có tình thương, hiếu chỉ là giả tạo, khó khăn, vụng về, cố gắng mệt nhọc. Mà có tình thương là có đủ hết rồi. Cần chi nói đến bổn phận. Thương mẹ, như vậy là đủ. Mà thương mẹ không phải là một bổn phận. Thương mẹ là một cái gì rất tự nhiên. Như khát nước thì uống. Con thì phải có mẹ, phải thương mẹ. Chữ phải đây không phải là luân lý, là bổn phận. Phải đây là lý đương nhiên. Con thì đương nhiên thương mẹ, cũng như khát thì đương nhiên đi tìm nước uống. Mẹ thương con, nên con thương mẹ. Con cần mẹ, mẹ cần con. Nếu mẹ không cần con, con không cần mẹ, thì đó không phải là mẹ, là con. Đó là lạm dụng danh từ mẹ con. Ngày xưa, thầy giáo hỏi rằng : “con mà thương mẹ thì phải làm thế nào ?” Tôi trả lời : “vâng lời, cố gắng, giúp đỡ, phụng dưỡng lúc mẹ về già và thờ phụng khi mẹ khuất núi.” Bây giờ thì tôi biết rằng : “con thương mẹ thì không phải “làm thế nào” gì hết. Cứ thương mẹ, thế là đủ lắm rồi, đủ hết rồi, cần chi phải hỏi làm thế nào nữa!”

Thương mẹ không phải là một vấn đề luân lý đạo đức. Anh mà nghĩ rằng tôi viết bài này để khuyên anh về luân lý đạo đức là anh lầm. Thương mẹ là một vấn đề hưởng thụ. Mẹ như suối ngọt, như đường mía lau, như xôi nếp một. Anh không hưởng thụ thì uổng cho anh. Chị không hưởng thụ thì thiệt cho chị. Tôi chỉ cảnh cáo cho anh chị đừng có than thở rằng : “đời ta không còn gì cả.” Một món quà như mẹ mà còn không vừa ý thì hoạ chăng có làm Ngọc Hoàng Thượng Đế mới vừa ý, mới bằng lòng, mới sung sướng. Nhưng tôi biết Ngọc Hoàng không sung sướng đâu, bởi Ngọc Hoàng là đấng tự sinh, không bao giờ có diễm phúc có được một bà mẹ.

Tôi kể chuyện này, anh đừng nói tôi khờ dại. Đáng lẻ chị tôi không nên đi lấy chồng, và tôi, tôi không nên đi tu mới phải. Chúng tôi bỏ mẹ mà đi, người thì theo cuộc đời mới bên cạnh người con trai thương yêu; người thì đi theo lý tưởng đạo đức mình say mê và tôn thờ. Ngày chị tôi đi lấy chồng, mẹ tôi lo lắng lăng xăng, không tỏ vẻ buồn bã chi. Nhưng đến khi chúng tôi ăn cơm trong phòng, ăn qua loa để đợi giờ rước dâu, thì mẹ tôi không nuốt được miếng nào. Mẹ nói : “mười tám năm trời nó ngồi ăn cơm với mình, bây giờ nó ăn bữa cuối cùng rồi thì nó sẽ đi ăn ở một nhà khác.” Chị tôi gục đầu xuống mâm cơm, khóc. Chị nói : “thôi con không lấy chồng nữa.” Nhưng rốt cuộc thì chị cũng đi lấy chồng. Còn tôi thì bỏ mẹ mà đi tu. Các ái từ sở thân, là lời khen ngợi người có chí xuất gia. Tôi không tự hào chi về lời khen đó cả. Tôi thương mẹ, nhưng tôi có lý tưởng, vì vậy phải xa mẹ. Thiệt thòi cho tôi, có thế thôi. Ở trên đời, có nhiều khi ta phải chọn lựa. Mà không có sự chọn lựa nào là không khổ đau. Anh không thể bắt cá hai tay. Chỉ khổ là vì muốn làm người nên anh phải khổ đau. Tôi không hối hận vì bỏ mẹ đi tu, nhưng tôi tiếc và thương cho tôi vô phúc thiệt thòi, nên không được hưởng thụ tất cả kho tàng quí báu đó. Mỗi buổi chiều lạy Phật, tôi cầu nguyện cho mẹ. Nhưng tôi không được ăn chuối ba hương, xôi nếp một và đường mía lau.

Anh cũng đừng tưởng tôi khuyên anh: không nên đuổi theo sự nghiệp mà chỉ nên ở nhà với mẹ. Tôi đã nói là tôi không khuyên răn ai hết, tôi không giảng luân lý đạo đức rồi mà. Tôi chỉ nhắc anh : mẹ là chuối, là xôi, là đường, là mật, là ngọt ngào, là tình thương. Để anh đừng quên. Để chị đừng quên. Để em đừng quên. Quên là một lỗi lớn : Cũng phải là lỗi nữa, mà là một sự thiệt thòi. Mà tôi không muốn anh chị thiệt thòi, vô tình mà bị thiệt thòi, khờ dại mà bị thiệt thòi. Tôi xin cài vào túi áo một bông hoa hồng : để anh sung sướng , thế thôi.

Nếu có khuyên, thì tôi sẽ khuyên anh như thế này. Chiều nay, khi đi học về, hoặc đi làm về, anh hãy vào phòng mẹ với một nụ cười thật trầm lặng và thật bền. Anh sẽ ngồi xuống bên mẹ. Sẽ bắt mẹ dừng kim chỉ, mà đừng nói năng chi. Rồi anh sẽ nhìn mẹ thật lâu, thật kỹ để trông thấy mẹ, và để biết rằ

ng mẹ đang sống và đang ngồi bên anh. Cầm tay mẹ, anh sẽ hỏi một câu ngắn làm mẹ chú ý. Anh hỏi : “Mẹ ơi, mẹ có biết không ?” Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên, và sẽ nhìn anh, vừa cười vừa hỏi: “biết gì?” Vẫn nhìn vào mắt mẹ, vẫn giữ nụ cười trầm lặng và bền, anh sẽ hỏi tiếp: “mẹ có biết là con thương mẹ không ?” Câu hỏi sẽ không cần được trả lời. Cho dù anh lớn ba bốn mươi tuổi, chị lớn ba bốn mươi tuổi thì cũng hỏi câu ấy. Bởi vì anh, bởi vì chị, bởi vì em đều là con của mẹ. Mẹ và anh sẽ sung sướng, sẽ được sống trong ý thức tình thương bất diệt . Và ngày mai, mẹ mất, anh sẽ không hối hận, đau lòng, tiếc rằng anh không có mẹ.

Đó là điệp khúc tôi muốn ca hát cho anh nghe hôm nay. Và anh hãy ca, chị hãy ca, em hãy ca cho cuộc đời đừng chìm trong vô tâm, quên lãng. Đoá hoa màu hồng tôi cài trên áo anh rồi đó. Anh hãy sung sướng đi.

TRÒ CHUYỆN VỚI THIỀN SƯ NHẤT HẠNH XUNG QUANH ‘BÔNG HỒNG CÀI ÁO’
(Nguồn: thuvien-thichnhathanh.org)

 Chúc Phúc – Quảng Kiến (Nguyệt San Giác Ngộ 2008)

thien-su-nhat-hanh
Thiền sư Nhất Hạnh

  1- Được biết, sau khi tác phẩm ra đời, Thiền sư đã phát động phong trào cài hoa hồng để tưởng niệm về công ơn mẹ. Xin Thiền sư cho biết lần đầu tiên phong trào này được phát động là vào mùa Vu Lan năm nào, tại đâu; Thiền sư có gặp sự trở ngại nào chăng khi đưa ra một nét văn hóa tuy đẹp đẽ song cũng rất mới lạ này?

Tôi không hề có ý định phát động phong trào Cài Hoa Hồng để tưởng niệm về công ơn mẹ. Phong trào ấy tự động phát khởi một cách tự nhiên mà thôi. Điều đó cũng làm cho tôi ngạc nhiên. Hồi đó, năm 1962, sau chín tháng nghiên cứu về khoa Tỷ Giáo Tôn Giáo tại Princeton University, tôi về nghỉ hè tại Camp Ockanickon ở Medford thuộc tiểu bang New Jersey Hoa Kỳ. Ban ngày tôi chơi và nói chuyện với thanh thiếu niên về Văn Hóa Việt Nam và đi chèo thuyền trên hồ, ban đêm tôi viết văn. Tôi đã viết đoản văn Bông Hồng Cài Áo trong một căn lều gỗ người trẻ dành cho tôi. Viết xong tôi gửi cho các vị đệ tử của tôi trong đoàn Sinh Viên Phật Tử Sàigon do tôi hướng dẫn. Bài này gửi qua chị Trương thị Nhiên. Chị Nhiên và đoàn Sinh Viên Phật Tử đọc xong rất cảm động nên quyết định đem chia sẻ cho mọi người. Họ bàn nhau chép tay ba trăm bản làm quà tặng cho những bạn bè của họ trong các phân khoa Đại Học Sài Gòn. Mỗi bản chép tay đều có gắn thêm một chiếc hoa màu hồng cho người còn mẹ hay màu trắng cho người mất mẹ, hay mất mẹ. Rằm tháng bảy năm ấy họ họp nhau lại tại Chùa Xá Lợi, làm Lễ Bông Hồng Cài Áo lần đầu tiên. Anh Tôn Thất Chiểu, một thành viên của đoàn Sinh Viên Phật Tử đã gửi cho Hòa Thượng Thích Đức Tâm, hồi đó đang làm chủ bút cho nguyệt san Liên Hoa của Giáo Hội Tăng Già Trung Phần. Tập San Liên Hoa đã đăng nguyên bài dưới tựa đề là Nhìn Kỹ Mẹ. Hòa Thượng Trí Thủ, bổn sư của Hòa Thượng Đức Tâm, đọc được đoản văn trên nguyệt san Liên Hoa đã khóc vì cảm động. Sau đó Bông Hồng Cài Áo được in ra nhiều lần, một số các chùa bắt đầu tổ chức Lễ Bông Hồng Cào Áo. Từ đó, Lễ Bông Hồng Cài Áo đã trở thành một truyền thống. Tôi không nghĩ là đã có những trở ngại trong khi phong trào được lan rộng. Năm 1964, nhà xuất bản Lá Bối ra mắt độc giả bằng quyển Bông Hồng Cài Áo, in khổ ốm dài để có thể bỏ vào bì thư gửi tặng bạn bè trong ngày Vu Lan. Quyển sách nhỏ này đã phải tái bản nhiều lần. Năm 1965 đoàn Cải Lương Thanh Nga đã dựng và trình diễn vở tuồng Bông Hồng Cài Áo và có mời tôi tham dự.

Tại trong nước cũng như tại ngoại quốc, đoản văn Bông Hồng Cài Áo đã được dịch và in ra nhiều thứ tiếng trong đó có tiếng Anh, Pháp, Đức, Hà Lan, Trung Hoa, Nga, Thái Lan và tiếng Lào.

2- Theo Thiền sư, giữa Ngày lễ của Mẹ trong văn hóa Nhật và ngày Vu Lan Báo hiếu trong văn hóa Việt Nam có những nét tương đồng và khác biệt nào?

Lễ Bông Hồng Cài Áo tổ chức tại Làng Mai mỗi mùa Hè kể từ năm 1983 đã làm theo tinh thần Việt Nam, khác truyền thống Nhật. Lễ này không những để vinh danh người Mẹ mà cũng để tưởng nhớ và vinh danh người Cha nữa. Mỗi người được cài hai chiếc hoa hồng, một dành cho Mẹ và một dành cho Cha. Chiếc hoa dành cho Cha nằm hơi cao lên một chút để phân biệt với hoa cho Mẹ. Và anh sẽ cài một hoa hồng cho Cha khi Cha còn sống, một hoa hồng cho Mẹ khi Mẹ còn sống.

3- Không ít người thắc mắc tại sao Thiền sư lại chọn hoa hồng mà không phải là loài hoa nào khác? Phải chăng đơn thuần chỉ vì hoa hồng là loài hoa biểu trưng cho tình yêu?

Mình nên hiểu chữ hồng trong bông hồng là đỏ. Cài hoa hồng thì cài hoa hồng đỏ. Cài hoa khác như hoa cẩm chướng thì cẩm chướng màu cũng đỏ, không nhất thiết là phải có hoa hồng (rose).Và khi Mẹ không còn, Cha không còn thì được cài hoa trắng . Các đệ tử người Hoa của tôi khi làm lễ Bông Hồng Cài Áo đầu tiên tại Đài Loan năm 1995 thì họ dùng hoa cẩm chướng màu đỏ và trắng cho buổi Lễ Cài Hoa tưởng nhớ Mẹ Cha. Mẹ Cha còn thì cài hoa cẩm chướng màu hồng. Mẹ Cha mất thì cài hoa cẩm chướng màu trắng. Bất cứ hoa gì cũng được kể cả hoa lan.

4- Nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ đã phổ nhạc thành công ca khúc Bông Hồng Cài Áo từ bài văn của Thiền sư, góp phần đưa nghi thức cài hoa hồng vào sâu trong đời sống văn hóa dân tộc. Xin cho Thiền sư cho biết cảm nhận mình của khi nghe bài hát ấy – lần đầu tiên cũng như bây giờ?

Phạm Thế Mỹ làm Bài Bông Hồng Cài Áo rất dễ dàng và tự nhiên như thở vào thở ra , tự nhiên như bước chân đi dạo, tự nhiên như khi nâng chén trà lên uống. Tôi không thấy tôi và nhạc sĩ là hai người khác nhau khi nghe ca khúc Bông Hồng Cài Áo, trước kia cũng vậy và bây giờ cũng vậy.

5- Là một người rất quan tâm đến giới trẻ Việt Nam nói riêng và giới trẻ trên toàn thế giới nói chung, Thiền sư có nhắn nhủ điều gì với các bạn trẻ nhân mùa Vu lan PL. 2550 năm nay?

Ngày Lễ Bông Hồng Cài Áo không phải là chỉ để tưởng nhớ công ơn Mẹ Cha. Các bạn phải biết thực tập nhìn sâu, tức là thực tập thiền quán trong ngày ấy. Phải thấy được những tài năng, đức hạnh và nét đẹp nào mà mình đã tiếp nhận từ Cha và từ Mẹ. Rồi thấy được Cha và Mẹ không phải là những thực tại có ngoài mình mà đang có ngay trong mình. Mình là sự tiếp nối của Cha, mình là sự tiếp nối của Mẹ. Và mình mang Mẹ mang Cha đi về tương lai. Phải biết mỉm cười cho Mẹ, thở cho Cha và bước đi cho cả hai. Sự tiếp nối đẹp đẽ của Cha Mẹ nơi mình là biểu hiện cụ thể nhất cho lòng Hiếu.

Nếu bạn lỡ có những khó khăn với Cha hay Mẹ thì đừng nghĩ cạn là Mẹ không thương, Cha không thương. Có thể những vụng về trong quá khứ về phía Cha Mẹ đã tạo ra những lớp khổ đau đè nặng và làm khuất lấp tình thương ấy. Mình biết nếu có gì xảy ra cho mình thì Cha Mẹ sẽ khóc hết nước mắt.. Và nếu có gì xảy ra cho Mẹ hay cho Cha thì mình cũng sẽ khóc hết nước mắt. Phải thấy rằng các vị đã có nhiều khổ đau và khó khăn mà chưa đủ khả năng chuyển hóa nên đã tự làm khổ mình và làm khổ lây đến các con. Mình cũng vậy. Mình đã khổ đau vì hiểu lầm, vì bực tức, và do đó đã lỡ nói những lời không dễ thương, có những phản ứng không đẹp đẽ với Cha và với Mẹ.

Bên nào cũng chịu một phần trách nhiệm. Thấy được cái khổ của Cha, của Mẹ, mình tìm cách giúp Cha và giúp Mẹ. Mình phải biết nói lời hối lỗi đã không giúp được Mẹ Cha mà còn làm cho Cha Mẹ khổ đau thêm. Sử dụng pháp lắng nghe và ái ngữ để tái lập được truyền thông, để dựng lại thâm tình, đó là điều mình có thể làm được. Tôi có nhiều vị đệ tử đã làm được việc đó, người Việt cũng như người ngoại quốc.

Có những người trẻ dại dột đã đi tự tử. Đó là một hành động tuyệt vọng, nhưng cũng là một hành động trừng phạt. Trừng phạt người đã làm mình khổ, trong trường hợp này, đó là những vị sinh thành ra mình. Ta sinh ra đời để thương yêu, không phải để trừng phạt. Chết như thế là một sự thất bại. Nếu bạn là Phật tử, bạn phải biết giáo pháp đức Thế Tôn có công năng chuyển rác thành hoa, biến phiền não thành bồ đề, dựng lại tình thâm từ xác chết hận thù. Cha Mẹ là Bụt đó, đừng đi tìm Bụt nơi nào khác. Ngày hôm nay bạn nói được câu gì, làm được cử chỉ gì để Mẹ vui, để Cha vui thì làm ngay đi, đừng để tới ngày mai, sợ rằng muộn quá. Đọc Bông Hồng Cài Áo để nhớ điều đó. Tôi chúc bạn một ngày Vu Lan thật ngọt ngào, thật hạnh phúc, thực tập thành công.

Nếu bạn được cài bông trắng, nên quán chiếu là Cha hoặc Mẹ vẫn còn còn trong bạn và có mặt trong từng tế bào của cơ thể bạn. Đưa bàn tay lên nhìn, bạn sẽ thấy bàn tay ấy của bạn mà cũng là bàn tay của Cha, của Mẹ. Trong bàn tay bạn, có bàn tay của Cha, của Mẹ. Bạn hãy đưa bàn tay ấy đặt lên trán và sẽ thấy, đó là bàn tay của Mẹ hay của Cha đang đặt trên trán bạn. Thật là nhiệm mầu.

Năm nay Thượng Tọa Đức Nghi ở tu viện Bát Nhã (Bảo Lộc, Lâm Đồng) và các vị cọng sự đang dựng một công trường Bông Hồng Cài Áo nơi khuông viên tu viện. Nơi công trường sẽ có tượng một bà mẹ Việt Nam đang đứng với hai em bé, một trai và một gái. Bé gái được cài trên áo một bông hồng, bé trai đang hý hửng cầm trên tay một bông hồng khác. Ta hãy tôn vinh Mẹ, tôn vinh Cha trong trái tim. Bụt dạy: Vào thời không có Bụt ra đời thì thờ Cha thờ Mẹ cũng là thờ Bụt. Đây là điều tôi muốn nói với các bạn trẻ ở Việt Nam cũng như trên thế giới.

[footer]

Dzũng Chinh & Những Đồi Hoa Sim

ĐÔI NÉT VỀ NHẠC SỸ DZŨNG CHINH
(Cập nhật 17.08.2014, nguồn: http://cafevannghe.wordpress.com, facebook.com/dongnhacxua)

Nhạc sĩ Dzũng Chinh tác giả 2 nhạc phẩm bất hủ “Những đồi hoa sim” và “Tha la xóm đạo” được giới yêu âm nhạc yêu thích nhất.

Dzũng Chinh chỉ là bút danh còn tên thật là Nguyễn Bá Chính. Đi quân dịch vào năm 1965. Vài năm sau khi ra trường, có lẽ chán nản với cấp bực trung sĩ, anh xin học khóa sĩ quan nhưng rồi nghe tin Dzũng Chinh chết tại Qui Nhơn (Có tài liệu ghi, khi vào đời lính, anh được điều xuống miền Tây, và trong một chuyến công tác, xe anh bị trúng mìn trên QL 4, lúc đó Dzũng Chinh mang cấp bậc chuẩn úy, được đưa về nghĩa trang quân đội Gò Vấp với bia ký là “Cố Thiếu úy Nguyễn Bá Chinh”). Nên tài liệu về người nhạc sĩ vắn số này rất ít, anh chỉ để lại đời nhạc phẩm “Những đồi hoa sim” và “Tha La xóm đạo” cùng một số nhạc phẩm khác không được nổi cho lắm.

Lời ca : “…mấy lúc xông pha ngoài trận tuyến không hẹn được ngày về, và đường về… thênh thang… màu hoa tím loang dài trong bóng tối…” đã giống như định mệnh của người nhạc sĩ tài hoa không may mắn với đời. Trên những đồi cát chập chùng nắng gió Qui Nhơn, màu hoa sim của Hữu Loan miền Bắc đã thấm vào hồn của Dzũng Chinh miền Nam để sống mãi trong lòng mọi người. Khi người ta yêu, cũng giống như khi người ta chết, có một thời họ ủ đau thương trên dòng mực của mình.

Ngày Dzũng Chinh phổ biến bản nhạc này, lúc đó anh đang còn là sinh viên ĐH Luật khoa Saigon, khoảng 1961-62 qua tiếng hát của “con nhạn trắng Gò Công” Phương Dung. Ngoài bản nhạc “Những đồi hoa sim”, anh còn phổ một số bài khác như “Tha La xóm đạo” (thơ Vũ Anh Khanh), “Các anh đi” (tác giả Hoàng Trung Thông), v..v…

Theo wikipedia: 

Dzũng Chinh tên thật là Nguyễn Bá Chính (một số tài liệu ghi là Nguyễn Văn Chính).

Khi sáng tác bản nhạc Những đồi hoa sim, ông còn đang là sinh viên Luật khoa Sài Gòn. Sau khi bài này nổi tiếng với tiếng hátPhương Dung (1961-1962), Dzũng Chinh được động viên vào lính và đi quân dịch vào năm 1965.

Khi được điều động về Trà Vinh, nhạc sĩ Trúc Phương viết bài Để trả lời một câu hỏi tặng ông.

Dzũng Chinh tử trận ngày 1/3/1969 với cấp bậc cuối cùng là Thiếu úy và được đưa về nghĩa trang Quân đội Gò Vấp chôn cất. Người bạn của ông là nhạc sĩ Thanh Sơn nghe tin bạn mình mất có viết bài hát Đọc tin trên báo, thâu vào đĩa nhựa Thiên Thai 45 do Trúc Ly ca.

NHỮNG ĐỒI HOA SIM

07.05.2012, [dongnhacxua.com]: Trong một bài viết trước về bản “Áo anh sút chỉ đường tà“, chúng tôi đã giới thiệu bài hát phổ từ bài thơ “Màu tím hoa sim” thành công nhất. Hôm nay, chúng tôi hân hạnh giới thiệu một bản nhạc cũng phổ từ bài thơ này: bản “Những đồi hoa sim” của Dzũng Chinh. Có thể nói không quá lời rằng “Những đồi hoa sim” là tiêu biểu của dòng nhạc bolero trữ tình, một đặc sản văn hóa của miền Nam ngày trước.

Những đồi hoa sim (Dzũng Chinh – Hữu Loan). Ảnh: dotchuoinon.wordpress.com

“Con nhạn trắng Gò Công” Phương Dung, ca sỹ được cho là thành công nhất với “Những đồi hoa sim”

ĐÔI CHUYỆN BÊN LỀ
Nguồn: http://my.opera.com/diemxuacafe/blog/dzung-chinh

Ngày Dzũng Chinh phổ biến bản nhạc này, lúc đó ông đang còn là sinh viên Luật khoa Saigon, với cái tên cha sinh mẹ đẻ là Nguyễn Bá Chinh. Sau khi bản nhạc nổi tiếng qua tiếng hát của ca sĩ Phương Dung (khoảng 1961-62), ông phải vào lính, khóa mấy Thủ Đức thì tại hạ không nhớ….Tốt nghiệp, ông được điều xuống miền Tây, và trong một chuyến công tác, xe ông bị trúng mìn trên QL 4, chuẩn úy Nguyễn Bá Chinh chết, được đưa về nghĩa trang quân đội Gò Vấp với bia ký là “Cố Thiếu úy Nguyễn Bá Chinh”. Ngoài bản nhạc “Những đồi hoa sim”, ông còn nổi tiếng với bản “Tha La xóm đạo” (thơ Vũ Anh Khanh).

Sau khi tàu hỏa Thống Nhất chạy được vài chuyến (1976), thì Hữu Loan đã vào Nam thăm thân nhân trên chuyến tàu này. Khi xuống ga Saigon, ông tình cờ nghe một giọng hát những lời có phần….quen quen. Tìm, thì thấy một người ăn mày….cụt chân (khiếm cước cái bang) đang ôm cây Ghi-ta cũ mèm ngồi ở góc sân ga, đang dạo và hát rất đúng nhịp bài hát của Dzũng Chinh. Hữu Loan ngồi nghe hết bản nhạc, rồi mới gợi chuyện, hỏi người hát rong ấy về bản nhạc và nguyên nhân nào làm anh cụt chân, người kia trả lời “…bị thương ở trận Bình Long anh dũng….”

Hữu Loan ái ngại, và yêu cầu anh kia hát lại, ông ngồi nghe hết bản nhạc rồi đứng dậy, móc hết tiền còn trong túi đưa cho “người nghệ sĩ nghèo”, kèm theo lời cảm ơn và nói cho anh nghe “…Tôi là tác giả bài thơ đó !”

Ông bỏ đi trong sự ngẩn ngơ của người ăn xin……. 

DongNhacXua.com mong nhận được hồi âm của bạn yêu nhạc.

Lời tình buồn (Chu Trầm Nguyên Minh – Vũ Thành An)

Trong niềm tiếc thương nhà thơ Chu Trầm Nguyên Minh, tác giả của bài thơ ‘Lời tình buồn’ (sáng tác năm 1967) mà sau đó nhạc sỹ Vũ Thành An đã phổ thành bản nhạc nổi tiếng mãi hơn 40 năm qua. Một lần nữa  [dongnhacxua.com] cầu chúc linh hồn ông mau hưởng niềm vui bất tận nơi miền miên viễn.

LỜI TÌNH BUỒN
(Nguồn: tác giả Trương Văn Dân đăng trên bbqt.com)

Lời ngỏ

Bài này viết vào đầu tháng 1/2014, lúc anh Tâm (CTNM) nhập viện. Lúc đó đã có 2 bản dịch ra tiếng Pháp và tiếng Ý của Elena. Dù rất mệt nhưng anh Tâm cũng cố gắng viết và gửi cho tôi bài viết về nguồn gốc và những liên quan về “lời tình buồn” để làm tư liệu.

Vừa rồi khi đến thăm anh ở bệnh viện Triều An anh Tâm nói còn thiếu bản dịch sang tiếng Anh. Tôi có nhờ HKO nhưng lúc này chị rất bận. Anh nhờ tôi thay anh viết mail nhờ nhà thơ Đặng Lệ Khánh.Mới đầu chị Khánh cũng hơi ngại việc dịch thơ nhưng khi biết tình hình sức khỏe của anh Tâm đang chuyển biến xấu … thì ngay chiều hôm đó tôi nhận được bản dịch qua mail. Mừng quá, tôi copy vào bài viết và gửi cho anh. Nhưng lúc này anh đã phải thở oxy và không mở mail được.

Hôm 18/2/2014 tôi gọi điện thăm anh nhưng mãi đến chiều mới liên lạc được. Chị Tùng Vân cho hay là lúc đó anh đang ngủ. Chị cho biết là lúc sáng chị có mở mail và đọc lại bài viết này cho anh nghe. Anh rất vui và xúc động.. 16h ngày 19/2 thì nghe tin anh đã từ giã bạn bè…

Tôi xin gửi bài viết này như thắp một nén nhang không màu khói để tiễn anh về cõi vô thường. Và tưởng nhớ những ngày chung sống cùng anh và các bạn văn ở nhà bs Thiện tại Paris.

Ảnh: luanhoan.net
Ảnh: luanhoan.net

Gần 50 năm trước bài thơ Lời Tình Buồn của Chu Trầm Nguyên Minh xuất hiện như một lời chia tay trong tâm trạng bấp bênh, mang đầy nuối tiếc của kẻ ra đi mà chẳng biết ngày về… “Anh đi rồi” vang lên như lời than thở của kẻ đang giã từ đời sống bình yên để bước vào cõi đạn bom. Cuộc ra đi đó là dấu chấm hết của đời thư sinh, xếp bút nghiên để cầm lấy súng. Bản tính hiền hòa, CTNM mang súng mà có lẽ chắc chẳng biết phải dùng súng để làm gì. Trong lòng anh chỉ mang nặng những âu lo, trước mắt anh chỉ có một bầu trời đầy sa mù nên lời thơ của anh âm thầm vang lên như một nỗi buồn thân phận. Cá nhân. Nhưng cũng là tập thể, của những trai tráng cùng thời…

Chỉ với câu thơ đầu : “ Anh đi rồi còn ai vuốt tóc”…. Bài thơ đã ngân lên như một khúc nhạc nhẹ nhàng, nhưng cũng đầy day dứt, xót xa khi phải xa cách trong tình yêu.

Chỉ một từ “đi” thôi nhưng sao nó làm nỗi buồn như kéo dài đến vô tận! Từ “đi ” ở đây không hẳn là chuyển động… mà còn là sự chia ly, là kéo dài khoảng cách không gian giữa hai kẻ yêu nhau, sẽ không còn thấy, không còn gặp, không còn được tình tự, âu yếm nhau nữa.

Một cảm giác cô quạnh khi hai người không được sống bên nhau. Sự chia ly làm kẻ ra đi buồn da diết và tình yêu sâu sắc của anh dành cho người ở lại lúc này đang lớn lên như biển như trời. Những câu hỏi kế tiếp chính là nỗi băn khoăn của kẻ ra đi: “đêm xuống rồi em buồn không hỡ?” Trời sa mù tầm tay với âu lo…

Chắc chắn là chỉ trước lúc xa nhau con người mới cảm nhận hết tình yêu thương, sự mất mát và nỗi cô đơn. Ý tưởng không mới, cũng chẳng lạ… thế nhưng người đọc thơ anh cứ nghe lòng buồn da diết – Có lẽ nó giải bày niềm khát khao hạnh phúc và nỗi đớn đau lúc chia ly trong tình yêu bằng cảm xúc rất thật, rồi ngôn ngữ và nhạc điệu đã làm cho cảm xúc thăng hoa? Đọc thơ anh, không khó nhận ra là lời thơ tự nhiên tuôn chảy, hoàn toàn không cường điệu hay cố gắng tạo ra những tiếng kêu thê thiết… mà âm vang vẫn man mác, trầm buồn.

Anh đi rồi còn ai đưa đón…

Nỗi lo lắng đơn giản mà xúc động. Những câu hỏi sau đó còn được anh liên tiếp, phóng bút đưa ra, dồn dập… như sự hốt hoảng này chính là nỗi buồn/nhớ đang giăng ngập hồn mình. Nó chiếm lĩnh trọn tâm hồn kẻ ra đi.

Bởi ra đi trong thời khói lửa chiến tranh là sự ra đi một đi không trở lại.

Quá khứ không quay về… Có còn lại chỉ là những kỉ niệm về ngày xưa. Những hoài niệm làm người đi day dứt… nên “đi rồi” mà như vẫn đứng đó, ngẩng nhìn về phía sau, vì, chỉ một chút nữa thôi là không còn chi nữa. Không còn mái tóc xanh “trùng dương sóng lượn” không còn cả ngôn ngữ để “ nói hết yêu thương”.

Đi, mà lòng vẫn ao ước được ở bên em… ở đâu cũng được, dưới thấp hay trên cao, thậm chí lơ lửng giữa bầu trời như một đóm sao…miễn là được nhìn thấy em, chiêm ngưỡng em… chăm lo cho em mọi thứ. Nhưng đi rồi…thì không gian xa khuất… nên lòng “..chợt buồn đứng ngóng bâng khuâng”

Bâng khuâng. Và lo sợ. Vì ngày mai biết đâu anh sẽ không còn sống, hay sống sót trở về mà một phần xương thịt đã gửi lại núi rừng.

Bài thơ chỉ có vỏn vẹn 112 chữ nhưng chứa đựng bao điều muốn nói. Ngắn, nhưng cô đọng những tâm tình, những âu lo, mất mát, của tuổi thanh xuân chìm sâu hun hút theo dòng lịch sử của một thời chinh chiến.

Bài thơ khi đọc lên, tự nó đã thấy buồn. Rồi qua lời hát nó còn da diết hơn. Thê thiết hơn. Ngôn ngữ trữ tình thanh thoát còn được bay lượn trên làn sóng âm thanh làm lòng người nghe cảm nhận một cảm giác chơi vơi. Đó có phải là ký ức về một thời trai trẻ, về mối tình đầu… mà ai ai trong chúng ta cũng sẽ giữ mãi? Cho dù ngày sau có ra sao đi nữa…có chết đi…thì vẫn hạnh phúc vì đã có được một tình yêu nồng thắm… “Phúc yêu em dấu lần quá khứ ”…Âm thanh du dương cao vút rồi khép lại bằng “ Nụ hôn đầu rụng xuống hư vô” …

Rồi tất cả chìm vào hư không… Còn lại chăng chỉ là một nỗi buồn, tiếc, nhớ… mênh mang…

&

Thơ là một dòng suối mà ngôn ngữ là con thuyền chuyên chở cảm xúc, nhờ thứ ngôn ngữ cô đọng đó nên “cái bên trong” của nhà thơ… lan ra bên ngoài…tưới mát tâm hồn và chạm đến trái tim người đọc. Thế nhưng xưa nay hiếm có những bài thơ mà âm vang dừng lại thật lâu, đọng lại trong tâm người thưởng thức..

Phần lớn những vần thơ đến với chúng ta chỉ trong một thoáng, nó như bức tranh mây đa sắc xuất hiện giữa bầu trời…và hình như chỉ khi nào có một họa sĩ tài hoa bằng nghệ thuật độc đáo của mình, nắm bắt được hình ảnh bất chợt, vẽ lên tranh thì hình tượng ấy mới trở nên cụ thể, hư ảo và sắc màu cùng hiện thì cảm xúc của nhà thơ mới được hình tượng hóa : và người yêu thơ mới có thể cảm nhận hết sự cộng hưởng của giai điệu và lời ca.

Bài thơ Lời Tình Buồn của CTNM nhẹ nhàng và ngôn ngữ tự nó có mang theo âm tiết như một bài ca. Nhưng phải nói thêm là tiếng vang của nó sẽ vụt tắt nếu không bắt gặp bàn tay tài hoa của Vũ Thành An. Chính có sự gặp gỡ này thì ngôn ngữ và âm thanh mới giao thoa và những cung bậc cảm xúc được vang lên bằng một thứ âm thanh len lỏi vào trái tim người nghe, ngân vang và được lưu giữ mãi.

Bài hát đã chắp cánh cho những vần thơ ngọt ngào, da diết … bay cao, lay động lòng người.

Nhiều năm sau nghe lại Khánh Ly (*)…giọng hát có lúc trầm buồn, có khi cao vút, khơi dậy trong lòng người nghe những nỗi nhớ của một thời yêu thương, lòng vấn vương bao kỷ niệm của hương xưa, của thuở chiến chinh, của trời mây non nước… Lời Tình Buồn cuốn hút, mang tâm hồn tôi bay ngược về quá khứ, hất tung những hình ảnh bị che mất dưới lớp bụi mịt mờ của thời gian…

Trương Văn Dân
Sài Gòn 1/2014

Trong cảm xúc ấy, xin ghi lại ở đây bài thơ Lời Tình Buồn của Chu Trầm Nguyên Minh:

LỜI TÌNH BUỒN

Anh đi rồi còn ai vuốt tóc
Lời tình thơm sách vở học trò
Đêm xuống rồi em buồn không hở
Trời xa mù tầm tay với âu lo

Anh đi rồi còn ai đưa đón
Áo em bay khuất mất thiên đường
Tuổi hai mươi vòng tay chờ đợi
Ngôn ngữ nào anh nói hết yêu thương

Anh đi rồi còn ai chiêm ngưỡng
Cổ em cao tay mười ngón thiên thần
Tóc em xanh trùng dương sóng lượn
Anh chợt buồn đứng ngóng bâng khuâng

Anh đi rồi còn ai tình tự
Đêm đầy trời ru tiếng nhớ bơ vơ
Phúc yêu em dấu lần quá khứ
Nụ hôn đầu rụng xuống hư vô.

Chu Trầm Nguyên Minh

…và bản dịch sang tiếng Anh của Đặng Lệ Khánh :

Love Blue

Once I am away, no one will softly touch your hair
Loving words – sweet as school years – no longer murmured to your ears
Night is falling now, are you feeling heartbroken
Misty fog is dripping down filling your arms with worriment

Once I am away, no one will pick you up and see you off
Paradise becomes unreal, so is your fluttering dress
Being twenty something, we are waiting for embraces
No word, nor language can describe my love enough

Once I am away, no one will adore your graceful neck
And your fingers so heavenly delicate
Your long hair flows like soft waves in the ocean
Standing here, in sudden sadness, I am longing for none

Once I am away, there will be no one to share your love
The night sky is filled with songs of remembrance and sorrow
The joy of loving you will soon be flowing into the past
And our first kiss will be falling into emptiness

và hai bản dịch sang tiếng Pháp và tiếng Ý của Elena Pucilo Truong

Les paroles tristes pour un amour
Je suis parti ….Qui te caressera les cheveux ?
Les mots d’amour parfument encore les cahiers
Tu seras triste quand tombera la nuit

Et le ciel brumeux te remplira de souci
Je suis parti…Qui t’accompagnera ?
Vole la bande de l’ao dai , en voilant le paradis
A vingt-ans , les bras sont ouverts en attendant un amour

Par quels mots je pourrais exprimer tout mon sentiment?
Je suis parti….Qui adorera
Ton long cou et tes doigts d’ange
Tes cheveux, fluctuants comme une vague de l’océan?

Et le regard se perd dans la tristesse…avec émotion
Je suis parti….à qui tu t’es confieras ?
Le ciel nocturne murmure la nostalgie mélancolique
La chance de t’avoir aimée , maintenant me fait oublier notre passé

Et le premier baiser sombre déjà dans le rien…

Bản dịch sang tiếng Ý :

Le parole tristi per un amore
Sono partito, chi ti accarezzera’ i capelli ?
Le parole d’amore profumano ancora i quaderni
Sarai triste quando calera’ la notte

E il cielo nebbioso ti riempira’ di preoccupazione.
Sono partito..chi ti accompagnera’?
Il lembo di ao dai vola, velando il paradiso
a vent’anni , le braccia sono aperte in attesa di un amore

Con quali parole potrei esprimere tutto il mio sentimento?
Sono partito… chi adorera’
Il tuo lungo collo e le dieci dita d’angelo
I tuoi capelli, fluttuanti come l’onda dell’oceano?

E lo sguardo si perde nella tristezza…con emozione
Sono partito… con chi ti confiderai ?
Il cielo notturno sussurra la malinconica nostalgia
La fortuna d’averti amato ora mi fa dimenticare il nostro passato

Ed il primo bacio già sprofonda nel nulla…

[footer]

Giàn mướp quê

Sáng nay, trong giây phút thư thả cafe sáng thứ bảy, [dongnhacxua.com] chúng tôi bất chợt gặp lại hình ảnh giàn mướp quê nhà qua tạp văn của tác giả Nguyễn Hiệp đăng trên Tuổi Trẻ Cuối Tuần. Hình ảnh người mẹ quê tần tảo lại hiện ra thấp thoáng bên giàn mướp sau vườn. Ngày đó, thập niên 1980, bản ‘Một sáng con về’ (nhạc sỹ Miên Đức Thắng phổ thơ Tường Linh) do Bảo Yến hát rất nổi tiếng, trong đó chúng tôi nhớ vài câu:

… Mẹ già ta đó 
Hái mướp bên rào
Nắng mưa đã nhiều
Tóc chiều đã xuống …

Thời gian mới đó mà đã hơn 30 năm. Giờ đây giàn mướp ở quê không còn nữa, mẹ cũng không còn khỏe để hái mướp như ngày nào. Thế nhưng mỗi chiều mẹ vẫn ra khu vườn cũ, lặng yên nhìn về một phương xa để mong những đứa con tha phương như chúng tôi một lần quay về ngồi bên mẹ bên giàn mướp như ngày xưa.

 

GIÀN MƯỚP CỦA MÁ
(Nguồn: tác giả Nguyễn Hiệp đăng trên Tuổi Trẻ Cuối Tuần)

TTCT – … “Từ độ người đi biết trưa quê
Thương giàn mướp nhỏ hoa chưa về
Vàng hoa trưa ấy còn bay phấn
Thơm đến trưa này trưa mướp quê”.

(Trưa quê – Sao Mai)

Thời thơ ấu của tôi quanh quẩn với lẫm lúa, gốc chùm ruột và giàn mướp trước sân nhà. Tôi còn nhớ mồn một những ô tre với rất nhiều bông mướp vàng ươm lấm tấm phấn lấp ló như là có sự sắp xếp tài tình. Từng chiếc lá giông giống bàn tay cứng cáp, từng cái ngọn cong cong vươn ra sởn sơ mềm mại, từng xoắn móc neo giữ cẩn trọng… được thiên nhiên tạo bằng tất cả sự tinh xảo, âu yếm.

Và cái “tuyệt tác” giàn mướp ấy không thể thiếu những chú ong bầu tròn tròn đen đen như hòn bi ve biết bay. Tôi mê mẩn tiếng ong bầu trong ống tre, loại nhạc kỳ diệu của thời tuổi nhỏ.

Khi đã nhiều tuổi, để nhớ về má, tôi tạo lại giàn, dây mướp đã phủ đều bốn góc nhưng loay hoay mãi tôi vẫn chưa tìm được tre, lại chỉ đan bằng những cọng kẽm lớn, nhìn có vẻ chắp vá, thiếu đi cái hồn vía “thương giàn mướp nhỏ hoa chưa về”. Dù là gì tôi vẫn xem đó là “giàn mướp của má tôi”, tôi thường ngồi hàng giờ với nó, cố giữ gìn, vun vén những rung động của chính mình và của tâm hồn thế giới xung quanh.

Cảm giác vậy nên mỗi lần ngồi dưới bóng râm mát của những bông vàng lấp ló ấy, tôi như thấy mình đang sống lại cái thuở thần tiên của đời người và hình như đâu đây thôi, má tôi đang bận rộn liền tay liền chân, năm tao bảy tiết chống chọi với gió mưa cuộc đời. Giàn mướp cảm giác, “giàn mướp của má tôi”, đã nhiều lần tôi gọi tên nó như vậy.

Giàn mướp sau nhà. Ảnh: soloha.vn
Giàn mướp sau nhà. Ảnh: soloha.vn

Bông mướp rụng nhiều là điềm chẳng lành. Bông mướp dày nhưng không đậu trái cũng không là điềm tốt đẹp. Cái búp như chiếc bông tai của người con gái mới được nhà trai đến dạm ngõ. Đôi bông ấy không đính hai hạt cẩm thạch lạnh lùng rào giậu mà nó mang, nó gợi cái tính, cái hồn của người con gái: vừa mơn mởn căng tràn sức sống lại vừa khuôn phép, rụt rè, vừa khao khát hiến dâng lại vừa e lệ, khép nép.

Mỏng mảnh yếu đuối vậy mà bông mướp đã trở thành hình ảnh khó phai, là chút gì đó hiền hòa, vương vấn, mến yêu không thể thiếu trước hiên nhà, sân nhà của miệt quê yên tĩnh. Hồi nhỏ, bọn trẻ xóm tôi thường ngắt ruột cọng mì từng đoạn, giữ lớp vỏ ngoài lại để tạo thành sợi dây chuyền, thắt lá dừa thành nhẫn, thành đồng hồ và bông mướp làm đôi bông tai, rồi len lén đeo tặng cho nhau, rụt rè nhìn trước ngó sau dúi vào tay nhau rồi ù chạy mà nhịp tim như nhịp trống.

Ôi! Những ngây thơ, ngây ngô, “ngố rừng” nhưng không kém phần da diết của một thời vụng dại. Dưới giàn mướp râm mát ấy, trò chơi đám cưới của những đứa bé quê chúng tôi đã thành những ký ức lung linh, quý giá hơn của cải vàng bạc châu báu. Chúng tôi mang theo như một phần hành trang trong suốt đời mình.

Nơi chân núi Tà Cú, tôi thường có khách văn ghé thăm. Dưới giàn mướp ấy, tôi để bộ bàn ghế đá uống trà, không hiểu sao câu chuyện của chúng tôi cứ thường quay về đề tài cảm giác. Chúng tôi đang ngồi uống trà, chợt tất cả ngoái nhìn ra vườn: bầu trời phủ đầy những chấm đen di động, thì ra đó là bầy ong mật đang chia đàn chuyển tổ.

Khi bầy ong tụ hết lại thành khối nơi góc giàn mướp, một nhà văn bạn đã nói: bầu trời giờ như chiếc tủ kính trong veo. Mọi người ồ lên xác nhận cái cảm giác ấy. Cảm giác đã tạo nên thái độ nhìn và cả thời tiết đời sống… Những lúc như vậy, tôi biết do cái khung cảnh dưới giàn mướp đã tác động đến chúng tôi nên cách nhìn, cách nghĩ của mọi người, của tôi trở nên lãng mạn như vậy.

Tạo hóa là một đấng sáng tạo điềm tĩnh, lạnh lùng, có phương pháp nhưng xét cho cùng cái mục đích thì lại để mở cho con người. Bầu trời cảm lạnh hay bầu trời trong veo là do cảm giác. Giàn mướp thơm tho hay không mùi vị cũng là cảm giác. Phàm những gì tinh tế chỉ có nơi những tâm hồn biết tĩnh lặng, biết lùi khỏi ồn ào, hào nhoáng, phù hoa.

Nhà thơ Sao Mai viết những câu thơ đã trở thành cổ điển về cái “trưa mướp quê” như có như không. Ấy vậy mà mỗi lần tôi nhớ lại, lẩm nhẩm đọc cứ rờn rợn trong người. Giàn mướp của má tôi, câu hỏi như không hỏi của nhà thơ Sao Mai: Vàng hoa trưa ấy còn bay phấn đã tạo ra những dấu lặng trong đời sống tinh thần của tôi, mãi mãi là như thế.

NGUYỄN HIỆP

BÀI THƠ ‘MỘT SỚM MAI VỀ’ CỦA TƯỜNG LINH
(Nguồn: ThiCa.net)

Một sớm mai về
Ngày vui thứ nhất
Ta đi chân đất
Mặc áo vải thô
Dẫm lá tre khô
Rụng đầy lối sỏi
Ta cười ta nói
Ta hát nghêu ngao
Bước thấp bước cao
Qua bờ ruộng nhỏ
Mẹ già ta đó
Hái mướp bên rào
Áo nâu thủa nào
Thêm nhiều mụn vá
Cần chi Mẹ à

Một sớm mai về
Thằng bé nhà quê
Thoát tầm lửa đạn
Đầu ngày nắng sáng
Nhà ai chung vườn
Khói bếp mến thương
Thơm xôi nếp mới
Chia xa vời vợi

Một sớm mai về
Tắm nước sông quê
Ngàn đời chẳng đục
Ta buông cần trúc
Bờ cỏ êm ngồi
Con giếc thả mồi
Con rô đớp bóng
Đài sen sương đọng
Hồ lộng màu thu
Trên ngọn mù u
Có đôi chim gáy
Trong chòm lau sậy
Tiếng quốc u oa
Dưới bóng đa già
Cút côi quán nước
Nằm trên cỏ mượt
Ta nhẩm vần thơ
Giấc mơ choàng tỉnh
Ngày ấy… bao giờ? 

(Nghe ‘Một sớm mai về’ qua nét nhạc Trầm Tử Thiêng và tiếng hát Khánh Ly)

[footer]

Giang hồ Sài Gòn đi vào nghệ thuật

Tiếp nối dòng văn nghệ về thế giới ngầm của Sài Gòn ngày trước, [dongnhacxua.com] xin đăng lại một bài viết trên VietnamNet.vn để úy vị có nhiều thông tin hữu ích.

CHUYỆN GIANG HỒ SÀI GÒN ĐI VÀO NGHỆ THUẬT
(Nguồn: VietnamNet.vn)

Thực ra, không phải bây giờ đất Sài Gòn, nay là TP.HCM, mới có nhiều tội phạm. Từ xa xưa, Sài Gòn được ví von là “Hòn ngọc viễn Đông” là lãnh địa làm ăn của giới tội phạm cả nước tập trung về đây.

Trước năm 1975, có thể xem là thời điểm “thịnh” nhất của tội phạm xã hội. Hồi ấy, người ta gọi chúng là “giang hồ”, “du đãng”…

Từ hảo hán thời loạn đến tội phạm

Thế giới giang hồ Sài Gòn, có thể tạm phân chia làm 3 giai đoạn lớn kéo dài gắn bó với những biến cố lịch sử của nước ta.

Thời Pháp thuộc, đã manh nha xuất hiện tầng lớp tội phạm cướp giật, quậy phá ở nhiều địa phương.

Sài Gòn lúc đó đang trong giai đoạn mới hình thành, là đô thị mới, kinh tế – thương mại phát triển mạnh mẽ vào bậc nhất ở Đông Dương.

Đường phố Sài Gòn trước năm 1975. Ảnh: VietnamNet.vn
Đường phố Sài Gòn trước năm 1975. Ảnh: VietnamNet.vn

Bởi vậy, Sài Gòn không chỉ là “đất lành” cho những người có ý chí làm ăn, tìm cơ hội thay đổi cuộc đời mà cũng là ‘đất sống” cho giới tội phạm quy tụ về “làm ăn”, giành giật lãnh địa, thanh toán nhau. Nhiều nhân vật du đãng có tiếng tăm được chính quyền thời bấy giờ trọng dụng, như Bảy Viễn…

Tuy nhiên, phát triển mạnh mẽ, có tổ chức tinh vi, chặt chẽ là giai đoạn từ những năm 60 đến năm 1975. Bằng những trận thư hùng đẫm máu, thế giới giang hồ Sài Gòn đã định hình thế “tứ trụ” do 4 băng nhóm nổi tiếng thống lĩnh, sử sách gọi nhóm “tự trụ” này bằng cái tên mỹ miều du nhập từ Hong kong “Tứ đại thiên vương” là Lê Đại (Đại Cathay) – Huỳnh Tỳ – Ngô Văn Cái – Nguyễn Kế Thế.

4 “đại vương” này chia nhau cai quản thế giới ngầm Sài Gòn một thời gian dài. Trong đó, băng của Đại Cathay dù sinh sau đẻ muộn nhưng nổi đình nổi đám nhất, đến mức như huyền thoại.

Tương truyền, Đại Cathay đã dám tung quả đấm như trời giáng vào bụng của Trung tá Nguyễn Cao Kỳ – sau này là trung tướng, phó tổng thống, thủ tướng Việt Nam cộng hòa trong vũ trường – chúng tôi sẽ nói rõ ở những phần sau.

Chế độ Việt Nam cộng hòa thời kỳ bấy giờ phải đối phó vô cùng vất vả. Có những lúc giữa quân cảnh và giới giang hồ phải bắt tay nhau để “chung sống”.

Vì bản tính ngông nghênh, Đại Cathay đã bị tiêu diệt. 3 “đại vương” còn lại vẫn tiếp tục hoạt động cho đến ngày giải phóng miền Nam. Chúng đã bị chính quyền Cách mạng trừng phạt, dẹp triệt để, đem lại bình yêu cho nhân dân TP.HCM.

Lịch sử giang hồ Sài Gòn ngoài “tứ đại thiên vương” còn nhiều nhân vật nổi tiếng khác như Bạch Hải Đường, Điềm Khắc Kim, Quý “tử hình” (anh ruột Lai anh và Lai em, 2 tên bị tử hình trong vụ án “Năm Cam và đồng bọn”), anh em võ sĩ Hồng Cương- Hồng Trực cai quản khu Cô Bắc – Cô Giang v.v…

Trương Văn Cam, tức Năm Cam đã có mặt trong thế giới giang hồ Sài Gòn vào những năm 1964 – 1965. Tuy nhiên, y chỉ là vô danh tiểu tốt, nương tựa vào ông anh rể là Bảy Si, lúc này đã có số má.

Lúc ấy không ai có thể biết trước rằng 30 năm sau Năm Cam sẽ trở thành ông trùm xã hội đen trên đất Sài Gòn.

Lúc ấy, Lâm chín ngón đã là tay chân thân tín của Đại Cathy, gặp Năm Cam không thèm ngó bằng nửa con mắt.

Có lẽ Năm Cam cũng không thể nghĩ có ngày hắn lại ngồi “chiếu trên” với bậc đàn anh cao vời vợi như Lâm chín ngón.

“Thành tích” lớn nhất của kẻ vô danh Năm Cam lúc bấy giờ là cứu Huỳnh Tỳ chạy thoát trong một cuộc đấu súng với lính dù…

Sau ngày giải phóng miền Nam, những chiến dịch của lực lượng Công an TP.HCM từ năm 1975 đến những năm 1980 đã xóa sổ cơ bản các thủ lĩnh khét tiếng và làm tan rã nhiều băng nhóm giang hồ còn sót lại. Những kẻ cầm đầu đều bị pháp luật trừng trị.

Tuy nhiên, như những loài cỏ độc, trên mảnh đất Sài Gòn – TP.HCM luôn phải đối phó với nạn lưu manh, cướp giật lúc rộ lên, lúc lắng xuống.

Những băng nhóm quy mộ như thời trước 1975 không còn đất sống thì xuất hiện nhiều băng nhóm nhỏ lẻ luôn là thách thức với lực lượng công an TP.

Vụ Năm Cam là bài học không thể quên vì sự sơ hở, mất cảnh giác đã để sống dậy tổ chức tội phạm quy mô, mang đậm chất tội phạm mafia, không còn phảng phất chất “du đãng”, “giang hồ” như trước kia.

Giang hồ đi vào …nghệ thuật

Ông trùm mafia Ý ở đảo Sicin trở thành bất hủ khi thành nhân vật chính trong tác phẩm Bố già (The Godfather) nổi tiếng của nhà văn Mỹ gốc Ý tên Mario Puzo.

Đại Cathay, trùm giang hồ Sài Gòn một thời. Ảnh: VietnamNet.vn
Đại Cathay, trùm giang hồ Sài Gòn một thời. Ảnh: VietnamNet.vn

Tác phẩm sau đó được dựng thành phim cũng nổi tiếng không kém. Nhân vật chính Don Vito Corleone trong phim là hiện thân của ông trùm tên Don Vito Cascio Ferr di cư từ Ý qua Mỹ những năm đầu thế kỷ 20, đã gây dựng nên tổ chức maphia đầu tiên trên xứ cờ hoa.

Ở Việt Nam, nhà văn Nguyên Hồng đã lấy nguyên mẫu một tội phạm ngoài đời đi vào tác phẩm “Bỉ vỏ”. Đây là tác phẩm văn học đầu tiên ở nước ta viết về thế giới giang hồ ở đất Hải Phòng.

Thế nhưng, tội phạm trong thế giới giang hồ thông qua thế giới nghệ thuật, ảnh hưởng mạnh mẽ đến tầng lớp trẻ là hiện tượng có một không hai lại xảy ra ở Sài Gòn trước năm 1975.

Đó là băng giang hồ của Đại Cathay cũng các quân sư và người tình đều trở thành những nhân vật nổi tiếng trong các tác phẩm nổi tiếng ở miền Nam thời bấy giờ.

Tác phẩm “Điệu ru nước mắt” của nhà văn Duyên Anh lấy nguyên mẫu trùm Đại Cathay làm nhân vật chính, được thi vị hóa thành kẻ giang hồ hào hoa, lãng tử.

Tương truyền, trong quá trình cuốn “Điệu ru nước mắt” được viết, Đại Cathay đã cung cấp thuốc phiện và khách sạn yên tĩnh cho nhà văn.

Tuy nhiên, sách ra đời, dù bán rất chạy nhưng Đại Cathay không hài lòng vì vài tình tiết không được như ý, nhà văn Duyên Anh phải trốn lên Đà Lạt sống một thời gian.

Đại Cathay ngoài đời tuy không được ăn học nhưng có đội ngũ quân sư là những trí thức, nghệ sĩ có tên tuổi giúp và băng nhóm của y bớt vẻ cục súc, độc ác như băng ba tàu Huỳnh Tỳ, Hoàng Cái Thế… Quân sư Hoàng là một nhạc sĩ ghi-ta cũng là nhân vật chính trong tiểu thuyết “Vết thù trên lưng ngựa hoang”.

Tác phẩm này nổi tiếng đến mức được dựng thành phim. Nhạc sĩ tài ba Phạm Duy đã phổ nhạc bài hát cùng tên cho bộ phim này.

Lệ Hải, người tình của Đại Cathay là nhân vật xuất thân từ nhà giàu, theo tiếng gọi giang hồ đã chọn thế giới này làm lẽ sống. Cuộc tình ngắn ngủi giữa Đại Cathay và Lệ Hải được giới giang hồ đồn đại đẹp như bài thơ tình lãng mạn.

Sau đó, người đẹp Lệ Hải qua tay bao nhiêu đấng mày râu khác, có kẻ là trí thức giang hồ, có kẻ là anh hùng hảo hán và có cả …nhà thơ!

Bài hát “Loài yêu nữ mang tên em” do ca sĩ Elvis Phương trình diễn nổi tiếng một thời xuất thân từ bài thơ của nhà thơ Văn Mạc Thảo: “Ta gọi tên em là yêu nữ – Là loài yêu mị gái hồ ly” được nhạc sĩ Ngọc Chánh phổ nhạc.

Nữ văn sĩ nổi tiếng ăn khách Lệ Hằng cũng vào cuộc, từ nhân vật Lệ Hải đã viết nên tiểu thuyết “Bản tăng gô cuối cùng” xuất bản nhiều lần trước năm 1975!

Ngoài những người trong băng Đại Cathy lên sách, tiểu thuyết, thơ và phim thì các nhân vật khác như Điềm Khắc Kim, Bạch Hải Đường là những nhân vật trong các vở cải lương cùng tên. Nhiều nghệ sĩ nổi tiếng như Hùng Cường, Minh Vương đã vào vai tướng cướp Bạch Hải Đường.

Tuy nhiên, cần nói thêm, nhân vật tướng cướp Bạch Hải Đường trong vở cải lương và ngoài đời cách nhau rất xa!

Duy Chiến

[footer]

Vết thù trên lưng ngựa hoang

Nhân dịp đầu xuân Giáp Ngọ 2014, [dongnhacxua.com] giới thiệu một bản nhạc nổi tiếng có liên quan đến “ngựa”: nhạc phẩm ‘Vết thù trên lưng ngựa hoang’, một sáng tác chung của nhạc sỹ Ngọc Chánh và Phạm Duy.

Trước hết, xin mời quý vị thưởng thức ‘Vết thù trên lưng ngựa hoang’ qua tiếng hát của Elvis Phương. Theo sự nhân định chủ quan của chúng tôi là chưa có ai hát bản này đạt như anh.

Để hiểu rõ hơn về bản nhạc này, chúng ta hãy quay về nửa cuối thập niên 1960, khi cuộc chiến Việt Nam ngày càng trở nên khốc liệt. Ngày ấy có một thành phần không nhỏ trong giới trẻ lớn lên theo cách tự phát, mất phương hướng và gần như đi bên lề của xã hội. Điều này đã được thể hiện rõ nét trong các tiểu thuyết về thế giới ngầm như ‘Loan mắt nhung’ của Nguyễn Thụy Long (viết năm 1967), ‘Điệu ru nước mắt’ của Duyên Anh (một bút hiệu của nhà văn Vũ Mộng Long, xuất bản năm 1965) hay ‘Vết thù hằn trên lưng con ngựa hoang’ (cũng của Duyên Anh, 1967).

‘Loan mắt nhung’ sau này được dựng thành phim rất ăn khách, trong đó bản nhạc nền ‘Loan mắt nhung’ do Huỳnh Anh sáng tác và Thái Châu ca cũng trở nên nổi tiếng. Trước đây [dongnhacxua.com] cũng đã có một bài viết giới thiệu ‘Loan mắt nhung’.

Còn trong ‘Điệu ru nước mắt’, Duyên Anh đã ‘thi vị hóa’ chuyện đời của đệ nhất giang hồ Sài Gòn – Đại ‘Cathay’ – để Đại trở nên phong trần hơn, lãng tử hơn. Có lẽ những ai theo dõi chuyện ‘bụi đời’ ngày trước sẽ không xa lạ với tứ đại giang hồ Đại-Tỳ- Cái -Thế: Đại ‘Cathay’, Huỳnh Tỳ, Ngô Văn Cái và Nguyễn Kế Thế. Trong đó, băng nhóm do Đại cầm đầu được cho là băng đảng có tổ chức tốt nhất. Để có được điều này, Đại đã khôn ngoan thâu nạp dưới trướng nhiều đàn em thuộc đủ mọi thành phần, có thực tài, biết dùng cái đầu chứ không phải chỉ biết đâm chém. Một trong số đó là Hoàng ‘guitar’, một tay giang hồ lãng tử với biệt tài chơi guitar.

Vết thù hằn trên lưng ngựa hoang (Duyên Anh). Ảnh: http://sachxua.net/forum/index.php?topic=8287.45
Vết thù hằn trên lưng ngựa hoang (Duyên Anh). Ảnh: SachXua.net

Sau sự thành công vang dội của ‘Điệu ru nước mắt’, từ tiểu thuyết cho đến phim cho đến nhạc (bản ‘Bao giờ biết tương tư’ cũng của Ngọc Chánh & Phạm Duy), đạo diễn Lê Hoàng Hoa dựng tiếp ‘Vết thù hằn trên lưng con ngựa hoang’ năm 1971 với diễn viên Trần Quang vào vai chính Hoàng ‘guitar’.

Trần Quang và Thanh Nga trong phim Vết thù trên lưng ngựa hoang, SX 1971, đạo diễn Lê Hoàng Hoa. Ảnh: ChutLuuLai.net
Trần Quang và Thanh Nga trong phim Vết thù trên lưng ngựa hoang, SX 1971, đạo diễn Lê Hoàng Hoa. Ảnh: ChutLuuLai.net

Sau những năm lăn lộn giang hồ, Hoàng ‘guitar’ gác kiếm, mai danh ẩn tích. Thế nhưng để giải quyết một hoàn cảnh túng thiếu ngặt nghèo, Hoàng quay trở lại giới giang hồ và nhận lời làm một phi vụ. Số phận đầy oan nghiệt, Hoàng đã bị bắn gục bằng những vết đạn hằn trên lưng.

Góp phần vào thành công của bộ phim không thể không kể đến nhạc phẩm “Vết thù trên lưng ngựa hoang” do nhạc sỹ Ngọc Chánh và Phạm Duy cùng sáng tác.

vet-thu-tren-lung-ngua-hoang--0--pham-duy--ngoc-chanh--amnhacmiennam--dongnhacxua.com

Vết thù trên lưng ngựa hoang (Phạm Duy - Ngọc Chánh). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Vết thù trên lưng ngựa hoang (Phạm Duy – Ngọc Chánh). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com

[footer]