Những ai say đắm bài thơ Động hoa vàng của nhà thơ Phạm Thiên Thư chắc sẽ bất ngờ khi biết nhiều ý tứ về “động hoa vàng” được ông lấy cảm hứng từ căn gác gỗ ở khu cù lao Phan Xích Long.
Mối lương duyên giữa thi sỹ Phạm Thiên Thư và nhạc sỹ Phạm Duy đã để lại cho hậu thế nhiều bản nhạc bất hủ. Một trong số đó là “Ngày xưa Hoàng Thị” mà Dòng Nhạc Xưa đã có dịp giới thiệu. Hôm nay chúng tôi xin mạn phép tiếp tục dòng thơ Phạm Thiên Thư qua thi phẩm “Động hoa vàng” mà Phạm Duy đã phổ thành tuyệt phẩm “Đưa em tìm động hoa vàng”.
[dongnhacxua.com] đã có một bài viết về nhạc phẩm “Ngày xưa Hoàng Thị” của nhạc sỹ Phạm Duy phổ theo thơ Phạm Thiên Thư. Hôm nay chúng tôi xin góp thêm chút ít thông tin bên lề qua bài viết của nhà báo Phanxipăng đăng trên tạp chí Kiến Thức Ngày Nay số 790 ngày 2012-07-20
Bài thơ Ngày xưa Hoàng Thị của thi sĩ Phạm Thiên Thư được nhạc sĩ Phạm Duy phổ thành bài hát cùng nhan đề vào năm 1971, được nhiều ca sĩ lần lượt thể hiện, tạo sức lan toả sâu rộng. Cũng từ đó, đề cập đến nữ nhân vật trong tác phẩm Ngày xưa Hoàng Thị, vì lắm lý do, có những ngộ nhận đã xảy ra khá nực cười.
Mái tóc của phái đẹp từ lâu đã đi vào dòng nhạc xưa qua nhiều sáng tác bất hủ. Hôm nay, DòngNhạcXưa xin mạn phép đăng lại bài viết có giá trị của ca sỹ Quỳnh Dao.
Một thương tóc xõa đuôi gà Hai thương ăn nói mặn mà có duyên Ba thương má lúm đồng tiền Bốn thương đôi mắt như sao hiền mùa thu…
Chúng ta đều biết Đông và Tây ít khi gặp nhau và người Việt mình khác dân Tây phương về nhiều lĩnh vực. Chuyện ấy lý luận cả tháng chắc cũng không hết. Trong mục tạp ghi hôm nay, người viết chỉ dám đề cập đến cái rất riêng trong những cái chung của hai thế giới. Cái chung là Đông Tây gì thì cũng yêu cái đẹp và thích ca tụng vẻ đẹp. Cái riêng là cách tán tụng vẻ đẹp. Nói cho “huy hoàng” vào ngày cuối năm thì sự dị biệt của người mình và người ngoại quốc chính là “mỹ quan”.
Bảo rằng huy hoàng để cho vui thôi chứ người ta có nhiều cách so sánh chuyện riêng và chung của hai nếp văn hoá, trong khi Quỳnh Giao chỉ dám thu hẹp vào một lĩnh vực nhỏ xíu… bằng sợi tóc. Đó là những khúc tình ca viết về mỹ nhân với suối tóc.
Ngẫm lại thì nhạc ngoại quốc có lời từ ca tụng nhiều nhất là đôi mắt, ngay sau đó tới… thân hình. Còn các nhà thơ và giới sáng tác của chúng ta chỉ cần mê đôi mắt và.. tụng mái tóc thì “cũng đủ lãng quên đời”. Hèn chi mà Đinh Hùng viết “một sợi tóc đủ làm nên mê hoặc….”
Vì vậy, xin nói về mái tóc trong các nhạc khúc xa xưa.
Từ thuở phôi thai của nền tân nhạc, Thẩm Oánh có bài “Suối Huyền” nhịp Slow, viết theo giai điệu Hạ Uy Di, nghe lả lướt óng chuốt, tiếc là đã lâu không còn ai hát lại nữa. Người viết thì còn nhớ hình bìa in ảnh cô Tâm Vấn với mái tóc dài, dợn sóng và khóe mắt hồ thu. Cũng theo lời thân mẫu kể lại thì ông viết để tặng mái tóc nổi tiếng ấy.
Nhớ lại thì cả Thẩm Oánh và Văn Phụng đều cùng thấy mái tóc óng mượt chảy xuôi như môt dòng suối.
Khi kết duyên cùng Châu Hà, nhạc sĩ Văn Phụng viết bài “Suối Tóc”, với lời của Thy Vân. Ca khúc có nét tân kỳ quý phái với điệu Boston dìu dặt như nhịp bước của đôi tình nhân. Không biết tác giả có lời yêu cầu với ông Thy Vân không, mà lời ca thì rõ là để tả mái tóc thời ấy của cô Châu Hà. Buông dài đến tận lưng, mầu nâu nhạt óng ả. Cho đến nay, ca khúc này vẫn còn được hát, đơn ca hay song ca, tam ca đều hay. Và dĩ nhiên người hát bài này tình tứ nhất là Châu Hà. Chứ còn ai nữa!..
Tìm cho thấy liễu xanh xanh lả lơi Hay đi tìm dòng suối tóc trên vai…
Cũng có khi ca dao được dùng làm tựa đề như bài “Tóc Mai Sợi Vắn Sợi Dài” của Phạm Duy một thời được những người con trong gia đình là ban Dreamers hát hằng đêm tại phòng trà Ritz. Như các tình ca khác của Phạm Duy, đến nay bài này vẫn thịnh hành. Cách hay nhất là song ca nam nữ.
Thuở ấy em vừa thôi kẹp tóc Thuở ấy anh vừa thôi học xong Yêu anh yêu anh em làm thơ Yêu em yêu em anh soạn nhạc…
Nhạc sĩ Nguyển Hiền có nét nhạc bay bướm mềm mại và viết bài “Mái Tóc Dạ Hương” phổ thơ Đinh Hùng rất đạt. Nhịp Boston êm đềm và cung Trưởng trong sáng làm cho ca khúc dễ hát dễ nghe. Ngày xưa Thanh Lan hát bài này trong cassette của Phạm Mạnh Cương rất dễ thương.
Từ giã hoàng hôn trong mắt em Tôi đi tìm những phố không đèn Gió mùa thu sớm bao dư vị Của chút ân tình hương tóc quen…
Cũng trong băng nhạc Phạm Mạnh Cương, Thanh Lan có hát bài “ Tóc Em Chưa Úa Nắng Hè”. Bài hát có tựa đề giống tên dịch từ một cuốn phim chiếu ở Sài Gòn thời 70.
Ca khúc này được Phạm Mạnh Cương viết trên cung Trưởng, nhịp Boston .
Em buông lơi tóc thề Tình mình theo cơn lốc về Em như mưa nắng hạ Hôn bờ biển xanh sỏi đá…
Hồi còn làm nhân viên cho phòng kỹ thuật cho đài phát thanh Sài Gòn, nhạc sĩ Hoài Linh có sáng tác bài “Về Đâu Mái Tóc Người Thương”, thường được Thanh Thúy trình bầy và thính giả rất thích vì tưởng tượng ngay ra mái tóc rất đặc biệt của người nữ ca sĩ có nét đẹp rất Liêu Trai…
Hồn lỡ sa vào đôi mắt em Chiều nao xoã tóc ngồi bên rèm…
Ra hải ngoại, Quỳnh Giao được nghe và thích bài “Tóc Mây”, về sau mới biết là của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ. Bài này thường được các nhạc sinh học hát chọn để trình bầy, vì nét nhạc lên bổng xuống trầm thật thướt tha và lả lướt. Nhịp Slow chậm rãi trên cung Trưởng trong sáng. Người viết nghe nhiều version, nhưng thích nhất là giọng Thái Hiền khi diễn tả ca khúc này. Cô diễn tả được nét bơ vơ, phát âm rõ ràng tròn trịa và không cường điệu.
Như cánh hoa đêm đong đưa nụ tình Gọi mời cơn gió hôn lá trên cao Như cánh chim đêm bơ vơ một mình Trời bao nhiêu gió tóc bao nhiêu tình…
Cũng ở hải ngoại , Thanh Trang của “Duyên Thề” sáng tác thêm nhiều ca khúc trữ tình đẹp cả từ lẫn nhạc. Bài anh viết về mái tóc phổ thơ Hà Nguyên Dũng có tựa đề rất nên thơ là “Tóc Em Vẫn Là Hương Của Mẹ”. Nét nhạc mang âm hưởng cổ kính của đất Thần Kinh.
Trời đang nắng bỗng mưa nào ai biết Mưa ướt rồi mái tóc xoã phai hương Anh yêu lắm mùi hương trên làn tóc Em đi qua thơm ngát cả con đường…
Nhạc sĩ trong giới tubip Phạm Anh Dũng thường sáng tác tình ca, có bài “Tóc Thề Đi Đâu Mà Vội” phổ thơ Hoàng Lan Chi, nhịp Luân Vũ nhịp nhàng, êm ái. Hát lên là nhớ lại thuở mặc áo dài trắng đứng trong sân trường.
Em đi đâu mà vội Nắng đã xếp hàng chưa? Tóc còn bờ vai xõa Cho ai lời hẹn xưa…
Chắc là còn nhiều lắm mà khuôn khổ một bài tạp ghi không cho người viết kể lể nhiều hơn. Người Tây phương ít khi rưng rưng chỉ vì một sợi tóc, chứ người Việt chúng ta lãng mạn mà kín đáo. Thương mái tóc là nhớ cả dáng người. Phải chăng vì mái tóc là biểu tượng của sự dịu dàng thơm tho, và cả nét đẹp của tâm hồn người yêu mái tóc nữa?
Nghĩ lại thì lối ca tụng cái đẹp tinh khiết và thánh thiện đó là một phong cách văn minh mà mình nên gìn giữ.
Liên quan đến bản “Mùa thu chết” có lắm điều thú vị. Hôm nay [dongnhacxua.com] xin trân trọng giới thiệu bản “Mùa thu còn đó” của nhạc sỹ Châu Kỳ. Theo nhiều tài liệu mà chúng tôi sưu tầm được thì bản này nhạc sỹ Châu Kỳ viết như là một lời đáp cho nhạc sỹ Phạm Duy để khẳng định “mùa thu” vẫn còn tồn tại mãi mãi trong lòng người yêu nhạc.
Nhân nói về bản ‘Mùa thu chết’ và hoa thạch thảo, [dongnhacxua.com] xin gởi thêm một bài viết cũng khá công phu về loài hoa đặc biệt này. Chúng tôi không đủ am hiểu về hoa cỏ để có nhận định của cá nhân mà chỉ mong qua bài viết này để người yêu nhạc có thêm thông tinđa chiều.
Những người có chút máu văn nghệ một lúc nào đó nổi hứng, thường buột miệng hát đôi câu vu vơ. Những câu hát nằm trong bộ nhớ có khi chỉ là một đoạn của bài hát. Khúc đầu, khúc giữa, khúc đuôi, khúc nào cũng được, tự nhiên bật ra như radio bắt được tần số dò đài, những bài hát cóp nhặt trên dòng đời một cách có ý hay vô tình nghe đâu đó thỉnh thoảng được hát nho nhỏ như thế..
Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo, ? Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi…
Đó là câu hát tôi thường nghêu ngao nhất, có lẽ vì không gian đượm buồn nhè nhẹ của lời bài hát, mà cũng vì trong câu hát có tên một loài hoa gây ấn tượng vì vẻ huyền hoặc của nó.
Có lẽ với người Tây phương, người ta biết ngay hoa thạch thảo là hoa gì, một cái gì thấy được, ngắt được,thậm chí ngữi được mùi hoa ngát hương của nó. Trừ những người đã đi Tây và có quan tâm tìm hiểu thì còn có thể biết chứ phần nhiều người Việt chúng ta thật ra đọc thì đọc, hát thì hát chứ chẳng biết hoa thạch thảo là hoa gì, mặt mũi vóc dáng ra sao ?!
Bài viết này không bàn luận gì về bài thơ L’ Adieu mà Búi Giáng đã dịch và Phạm Duy đã phổ nhạc, tôi chỉ muốn nhân câu chuyện liên quan đến bài thơ để đi tìm ra một cành hoa đúng thật là một cành hoa thạch thảo đặt lên mộ của Léopoldine tiếc thương người bạc mệnh.
Léopoldine là con gái cưng của Victor Hugo, đại văn hào Pháp (1802-1885). Léopoldine đã chết đuối cùng chồng trong một vụ lật thuyền trên sông Seine vào trưa ngày 4/9/1843, khi cô chưa đầy 20 tuổi và đang mang thai 4 tháng. Hugo chỉ biết tin con mất khi ông vô tình đọc một tờ báo ở quán cà phê nọ. Mộ Léopoldine được chôn gần nơi bà qua đời trên bờ sông Seine đoạn chảy qua Villequier gần cảng Havre, cạnh khu bờ biển Normandi. Apollinaire làm bài thơ L’Adieu sau khi đi thăm mộ Léopoldine con gái của Victor Hugo vào ngày 16 tháng 9 năm 1913.
L’Adieu J’ai cueilli ce brin de bruyère
L’automne est morte souviens-t’en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t’attends
Lời vĩnh biệt ( dịch) Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo
Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tao phùng đựợc nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó…
Bùi Giáng (1925-1998) dịch
(“Ði vào cõi thơ”. Bùi Giáng, trang 80-82, nhà xuất bản Ca Dao, Sàigon, Việt Nam.1969)
Cũng dựa trên ý thơ của bài thơ nói trên, năm 1965, Phạm Duy viết bài “Mùa thu chết” mở đầu bằng 2 câu:
“Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo
Em nhớ cho: Mùa Thu đã chết rồi!
Bùi Giáng thì dịch “ hái nhành lá” còn Phạm Duy thì viết “ ngắt cụm hoa”. Đây là khởi đầu của những suy diễn sai lầm của nhiều người viết về hoa thạch thảo.
Ngắt cụm hoa trong lời nhạc của Phạm Duy gợi hình ảnh một “cây thân thảo”, hình ảnh người ngắt cụm hoa là hình ảnh một người cúi xuống một bụi hoa .
Hái nhành lá cây trong câu thơ dịch của Bùi Giáng gợi hình ành một cây “hoa thân mộc” cao vừa tầm hái.
1. Những cây không phải là Hoa Thạch Thảo nhưng bị ngộ nhận:
Việc ngộ nhận hoa thạch thảo của người đọc bài thơ dịch và và lời bài hát nầy có nguyên do từ tên gọi tiếng Việt, một sự đồng hóa, lồng ghép khiên cưởng của chữ nghĩa do tên gọi giống nhau.
a. Ngoài Bắc, người ta gọi Cúc cánh mối (vì hoa mỏng nhẹ như cánh mối) là thạch thảo, cúc thạch thảo nên nhiều người cứ thản nhiên coi cây hoa thạch thảo trong bài thơ nói trên là cây cúc cánh mối .
Cây có nguồn từ châu Âu, châu Á. Cúc cánh mối là cây thân thảo, sống nhiều năm nhờ có thân rễ mọc bò dưới đất. Thân cao 15 – 50 cm, đơn hay phân nhánh ít ở ngọn. Lá dài, thuôn hình giáo tù, hơi có lông mịn, nguyên, các lá ở thân không có cuống. Cụm hoa hình đầu đơn độc ở ngọn các nhánh. Vòng hoa đều dài, cánh môi thuôn hẹp, thẳng màu lam tím. Các hoa ở ngoài hình lưỡi, màu lam tím, dài 1 cm. Hoa giữa hình ống hẹp màu vàng, xếp sát nhau. Hoa thường màu tím nhạt. Quả bế có mào lông mịn màu vàng.
Cúc cánh mối, tên Aster amellus L, hay còn gọi là cúc thạch thảo, là một loài thuộc chi Cúc sao (Aster) thuộc về Họ Cúc (Asteraceae). Tên tiếng Anh European Michaelmas Daisy, tiếng Pháp Oeil de Christ.
Như vậy, có thể nói ngay Cúc cánh mối không phải là cây hoa thạch thảo. Sự nhầm lẫn bắt nguồn từ việc trùng tên theo cách gọi của người miền Bắc Việt nam mà thôi.
Rất nhiều bài viết trên mạng internet về hoa thạch thảo kể một câu chuyện tình lãng mạn của đôi thanh niên nam nữ có tên hẳn hoi. Có thể đó là một câu chuyện bịa như hầu hết truyền thuyết, cố ý tạo một câu chuyện đầy kịch tính rồi gán ghép vào xuất xứ tên gọi một loài hoa. “Ami và Edible thường hay cùng nhau vào rừng. Ami hái nấm còn Edible săn thú. Rồi, Edible vươn người ra vách đá dựng hái hoa thạch thảo cho Ami. Edible sẩy chân rơi xuống vực chỉ kịp nói xin đừng quên tôi”, (kèm theo bài viết là hình chụp Cúc cánh mối để minh họa) .
Bắt đầu từ đây, những bài viết đó kéo thêm những ngộ nhận tiếp theo “Ban đầu họ đặt tên cho nó là Forget me not, sau nhiều năm và được trồng ở nhiều nước nó lại có những cái tên khác nhau như Muguet De Mai (Pháp), Thạch Thảo (Việt Nam)…”
b. Chính hoa 5 cánh tiếng Việt gọi là Hoa Lưu Ly mới là hoa Forget me not
Trong một số ngôn ngữ, tên của hoa lưu ly được gọi là hoa “xin đừng quên tôi“. Tên tiếng Anh “Forget me not” được mượn từ tên tiếng Pháp là “Ne m’oubliezpas” và được dùng lần đầu tiên vào khoảng năm 1532.
Có khoảng 50 loài lưu ly trong chi này, và chúng khác biệt nhau một cách đáng kể. Tuy nhiên, một lượng lớn các loài có chung các đặc điểm được miêu tả như hoa màu lam tím nhỏ (đường kính 1 cm) với 5 cánh hoa mọc dày dặc trên các thân cây bò lan um tùm, ra hoa vào mùa xuân. Các loại màu sắc khác của hoa cũng không phải là bất thường trong chi này, với các dạng màu hồng hay trắng vẫn có thể tồn tại. Chúng hay được trồng trong vườn và các giống trồng thường có hoa với màu sắc hỗn tạp.
Các loài lưu ly có thể là cây một năm hoặc cây lâu năm. Hệ thống bộ rễ của chúng nói chung là rễ chùm. Hạt của chúng được tìm thấy trong các quả dạng quả đậu nhỏ, hình tulip dọc theo thân tới hoa. Quả đậu bám vào quần áo khi va chạm phải chúng và cuối cùng rơi xuống đất, giải phóng các hạt nhỏ để chúng có thể nảy mầm ở mọi nơi.
Họ (familia):
Boraginaceae
Phânhọ (subfamilia):
Boraginoideae
Chi (genus):
Myosotis
Đây chỉ là sự gán ghép tên gọi. Dựa vào lời của người bạn trai nói với bạn gái khi rơi xuống vực trong câu chuyện thương tâm nói trên để cho rằng hoa thạch thảo còn có tên gọi là forget me not là một sai lầm ấu trỉ.
c. Thêm một loài hoa được kéo vào đây để tung hỏa mù làm người đọc không biết đâu mà lần là Muguet De Mai (Pháp).
Hoa này có tên là Hoa Linh Lan, trong tiếng Anh còn được gọi là Our Lady’s tears (Nước mắt của Mẹ). Các tên gọi khác trong tiếng Anh là May Lily (huệ tháng Năm), May Bells (hoa chuông tháng Năm), Lily Constancy (huệ chung thủy), Ladder-to-Heaven (thang tới thiên đường), Male Lily.
Theo truyền thống, hoa linh lan được bán tại Pháp trên các đường phố vào ngày 1 tháng 5. Kể từ năm 1982, hoa linh lan là quốc hoa của Phần Lan.
Bộ (ordo):
Asparagales
Họ ( familia):
Ruscaceae
Chi (genus):
Convallaria
Loài (species):
C. majalis
Linh lan hay lan chuông (danh pháp khoa học: Convallaria majalis,L, là loài duy nhất trong chi Convallaria thuộc một họ thực vật có hoa là họ Ruscaceae. Nó có nguồn gốc trong khu vực ôn đới mát của Bắc bán cầu tại châu Á, châu Âu và Bắc Mỹ. Nó là một loài cây thân thảo sống lâu năm có khả năng tạo thành các cụm dày dặc nhờ loang rộng theo các rễ ngầm dưới mặt đất gọi là thân rễ. Các thân rễ này tạo ra rất nhiều chồi mỗi mùa xuân. Thân cây cao tới 15–30 cm, với hai lá dài 10–25 cm và cành hoa bao gồm 5-15 hoa trên đỉnh ngọn thân cây. Hoa có màu trắng (ít khi hồng), hình chuông, đường kính 5–10 mm, có mùi thơm ngọt; nở hoa về cuối mùa xuân. Quả của nó là loại quả mọng màu đỏ, nhỏ với đường kính 5–7 mm. Nó là một loại cây cảnh trồng phổ biến trong vườn vì các hoa có mùi thơm của nó.
Kết 1:Cúc cánh mối (Aster amellus L), forget me not hay còn gọi là hoa lưu ly (Myosotis), Linh lan hay lan chuông (Convallaria majalis,L), cả 3 loài đều không phải là Cây Hoa Thạch Thảo.
2. Hoa Thạch Thảo là cây gì ?
Guillaume Apollinaire làm bài thơ L’Adieu sau khi đi thăm mộ Léopoldine con gái của Victor Hugo vào ngày 16 tháng 9 năm 1913. Bài thơ được viết lên một phần là để tưởng nhớ Victor Hugo, một phần là tiếc thương người bạc mệnh.
Câu đầu:
J’ai cueilli ce brin de bruyère,
được Bùi Giáng dịch rất sát:
Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo,
Brin de bruyère là nhánh, cành, nhành cây thạch thảo. Có lẽ Bùi Giáng cũng không biết cây thạch thảo ra sao, nên cứ bám vô chữ mà dịch cho chắc ăn. Mấy câu dưới ý tứ thoáng hơn nên có thể dịch thoát cũng được. Còn Phạm Duy phổ nhạc nên lại càng thoáng hơn một chút nữa. Cành lá hay cụm hoa cũng được, có hoa hay chỉ trơ cành cũng chẳng sao, thì cứ chữ gì động được đến tầng vi tế rung động của con tim là phổ. Phạm Duy có biệt tài phổ nhạc, ý nhạc nâng ý thơ, nên những bài thơ ông phổ hầu như tất cả đều nổi tiếng và đôi khi làm những nhà thơ vô danh cũng nổi tiếng theo.
Điều chính yếu của bài viết này là tìm ra đúng cây Hoa Thạch Thảo mà Apollinaire đã từng hái nhành hoa và đặt lên mộ Léopoldine vào ngày cuối thu (16/9).
Cây Hoa thạch thảo có
Tên Hoa : 紅方柏 (hồng phương bách), 石楠 thạch nam)
Tên Anh : heather
Tên Pháp: bruyère
Thuộc Họ Đỗ Quyên (Ericaceae)
Tất cả các loại thạch thảo đều trong Họ Ericaceae, có một loài hoa thạch thảo duy nhất thuộc Chi Calluna, ngoài ra là Chi Erica. Dưới đây là một số loài thuộc Chi Erica trong hàng vài trăm loài khác nhau trên thế giới.
Loài Calluna vulgaris là loài thạch thảo thật sự (true heather), loài cây nhỏ, có hoa nhỏ hình chuông màu tím, hay hồng nhạt.
Chi Erica gồm nhiều loài khác nhau từ loài cây nhỏ mọc từng bụi nhỏ hoặc có thể là cây lớn.
– Erica arborea, cây nhỏ ở vùng Địa Trung Hải có chùm hoa trắng hình chùy, thơm và có rễ cứng như gỗ được dùng để làm ống điếu hút.
– Erica carnea, là loại cây hoa nhỏ mùa đông hay mùa xuân, ở Âu châu có hoa hình chuông màu đỏ hay hồng. Phân bố ở vùng núi Alpes
– E. cinerea: loại thạch thảo có lá nhỏ, hoa hình chuông màu đỏ tím từ Tây Âu cho đến Đan mạch.
– Erica ciliaris phân bố ở phía Tây nước Pháp, Anh quốc, bán đảo Ibériquevà Bắc Maroc.
– E. tetralix, bellheather, cross-leaved heath là loại cây nhỏ lùn có hoa màu hồng ở Tây Âu
– E. vagans hay còn gọi là Cornish heath là loại thạch thảo mọc cả bụi có hoa màu hồng hay trắng thường thấy ở cánh đồng hoang tại Cornish và đông nam Ấu châu.
– E. lusitanica mọc rậm rạp có hoa trắng hồng phân bố ở Tây ban nha và Bồ Đào Nha và ở vùng bán đảo Iberia.
– E. perspicua hay Prince of Wales heath mọc rất nhiều ở Anh quốc và Nam Phi châu, có hoa màu trắng. Hoa dài và trông tựa như chùm lông của huy hiệu trên Coat of Arms của Hoàng tử xứ Wales- Anh Quốc, nên mang tên Prince-of-Wales heath
– Erica mammosa là loại Erica có nhiều màu nhất từ màu trắng, tím, cam đến màu đỏ. Hoa chuông đặc biệt dài hơn các loại Erica khác.
Có thể kể thêm một số loài :
Erica australis phân bố ở Bắc Maroc, Erica ciliaris ở phía Tây nước Pháp, Anh quốc, Erica cinerea, Erica erigena, Erica mackaiana, Erica manipuliflora, Erica multiflora, Erica scoparia, Erica sicula, Erica terminalis, Erica tetralix, Erica umbellata.
Những loài này phân bố cùng khắp nên tôi chỉ để ý đến những loài cư trú ở vùng Normandi là bờ biển phía Tây của nước Pháp và phân bố rộng rải ở Anh quốc.
Sau khi đã nghiên cứu, phân loại và loại suy cùng đối chiếu với hình ảnh hoa thạch thảo trong văn chương, văn bản. Tôi đi đến kết luận:
Kết 2:Loài Calluna vulgaris là loài thạch thảo thật sự (true heather), loại cây nhỏ, có hoa nhỏ hình chuông màu tím, hay hồng nhạt chính là Cây Hoa Thạch Thảo mà tôi muốn tìm.
Loài hoa này gốc ở Châu Âu, nhờ mấy nhà thơ, nhà văn nên nó mới thành hoa kiểng, chứ trước kia thế kỷ 17 -19 nó là hoa dại. Ở miền bắc nước Anh cây hoa thạch thảo này mọc đầy đồng, giống như cỏ tranh ở Việt Nam. Dân Scotland lấy thân của nó bện lại làm chổi, hoặc lợp mái, ken vách và nhiều công dụng thực tế khác hơn là làm kiểng. Bây giờ di cư sang Châu Mỹ nó thành Cô Bé Thị Thành đỏng đảnh ỏ trong các tiệm bán hoa, chứ ngày xưa nàng gốc nhà quê rặt.
Ai từng đọc qua truyện Ðỉnh Gió Hú (Wuthering Heights) của Emily Bronte chắc cũng nhớ đến những cánh đồng hoang (moors) mọc đầy hoa thạch thảo (heather), và tiếng hót líu lo của những con chim chiền chiện (moor-lark). Hoa thạch thảo là loài hoa mà chính tác giả, Emily Bronte yêu thích, nàng đã nhiều lần đưa nó vào truyện và thơ của mình. (1)
Hành trình đi tìm Nhành Hoa Thạch Thảo khởi đi từ những ngộ nhận về một loài hoa đã đi vào văn thơ của thế giới và thơ nhạc Việt nam. Người ta thường muốn biết chân dung thật sự người trần mắt thịt của một Nàng Thơ là như thế nào. Vì thế mới có Ngô Vũ Bích Diễm của Diễm xưa, có Ngô Vũ Dao Ánh của Thư Tình Gửi Một Người, Minh Đức Hoài Trinh của Đừng Bỏ Em Một Mình, Khánh Ngọc của Nửa Hồn Thương Đau….
Nhành Hoa Thạch Thảo cũng là một Nhành Thơ trong tâm hồn của nhiều người Việt.
Chân dung Nàng đã hiển lộ nhưng nét duyên của Nàng không bao giờ phai mờ.
Ôi ngát hương thời gian mùi thạch thảo,
Em nhớ cho rằng ta vẫn chờ em…
Lê Duy Đoàn
Sài gòn, 06/01/2013
_________________
Trích:
(1) Một đoạn ngắn trong bài “Hoa tương tư” của Lê Phạm Trung Dung
Tiếp nối dòng nhạc xưa về mùa thu, chúng tôi xin giới thiệu “Mùa thu chết” của nhạc sỹ Phạm Duy, một bản nhạc có giai điệu đẹp và có rất nhều điều thú vị trong ca từ. Được sự cho phép của tác giả, [dongnhacxua.com] xin đăng lại bài viết của bác sỹ Lê Trung Ngân.
Một trong những bản nhạc nói về mùa thu hay diễn tả mùa thu nổi tiếng ở Việt Nam vào thập niên 70 phải kể đến bài nhạc Mùa Thu Chết của Nhạc sĩ Phạm Duy. Lời viết trong bản nhạc phỏng theo một bài thơ ngoại quốc. Trong bản nhạc, ngay câu đầu tiên có nói đến hoa thạch thảo: “Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo”. Hoa thạch thảo cũng được nói đến trong rất nhiều bài thơ văn hay nhạc khác từ trong nước đến hải ngoại. Vậy hoa thạch thảo ở Việt Nam và hoa thạch thảo trong bài thơ L’Adieu của nhà thơ Pháp gốc Ba Lan Guillaume Apollinaire, mà nhạc sĩ Phạm Duy đã phổ nhạc cũng như trong bài thơ dịch của nhà thơ Bùi Giáng khác nhau, có tên Latin ra sao và thuộc họ hay gia đình nào?
Bài viết ngắn này phân biệt hai loại hoa mang tên thạch thảo, một loại mang tên nguyên thủy ở miền Bắc Việt Nam và hoa thạch thảo có xuất xứ ở Ấu châu. Những bàn luận về lý do và tình tiết làm sao bài thơ được ra đời cũng được thu thập và ghi nhận ở đây.
Hoa thạch thảo ở Việt Nam
Hoa Thạch thảo (Aster amellus L) thuộc họ Cúc (Asteraceae). Tại Việt Nam, người miền Nam hay gọi là Cúc Sao, Cúc Cánh mối, người Bắc gọi là Thạch thảo. Thạch thảo hay mọc thành bụi, nhiều bông với cánh đơn xoè rộng ra. Hoa Thạch thảo có ba màu chính: tím, hồng, trắng. Thạch thảo ngày nay được lai tạo thêm thành loại hoa cánh kép. Hoa Thạch thảo cánh mối cũng như các loại hoa cúc thường nở vào mùaThu, khi mà đa số các loại hoa khác đã tàn.
Như vậy, hoa Thạch Thảo (hay cúc Sao, cúc Nhật, cúc Cánh Mối) là 1 tên Việt của loài Aster amellus L. thuộc họ Cúc (Asteraceae), tên Anh ngữ là Aster và Pháp là Astère. Nhóm Cúc (cả trồng làm hoa hay mọc hoang) thường được gọi chung là Chrysanthemum/Aster, trong đó các loài mọc hoang thường có 1 chùm lông ở cuối mỗi hột (khi trái chín) và phát tán nhờ gió (nên mọc hoang, rải rác vào mùa xuân khi có nắng ấm ở Âu châu, hoa chỉ sống trong vài tháng!). Các loài cúc trồng thì không phát tán tự nhiên được vì hột không có lông như Vạn Thọ (marigold), cúc Giấy (zinnia). Có loại được trồng từ hột, có loại trồng bằng củ; cúc Thạch Thảo (cúc sao/Aster), và nói chung loại nhiều loại cúc thường trồng từ cây con nhảy chồi (do mọc thành bụi, hoa thường bất thụ). (Tài liệu tổng hợp từ internet).
Hoa Thạch thảo hay hoa Cúc Cánh mối ở Việt Nam (Hình từ internet)
Hoa Thạch Thảo ở Âu Châu
Hoa Thạch thảo Ấu châu là thuộc cây Bruyère (tiếng Pháp) hay Heather (tiếng Anh) còn gọi là Common Ling hay Briar.
Từ điển Sinh Học Anh Việt và Việt Anh, nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật dịch heather là cây thạch nam. Erica. Trung hoa gọi là Hồng phương bách hay thạch nam. Từ điển phổ thông Pháp Việt gọi là cây thạch thảo.
Phân loại
Tất cả các loại thạch thảo đều trong gia đình Ericaceae, có một loại hoa thạch thảo duy nhất thuộc giống Calluna, ngoài ra là loại Erica. Dưới đây là một số giống Erica khác nhau trong hàng vài trăm loại khác nhau trên thế giới.
Loại Calluna vulgaris là loại thạch thảo thật sự (true heather), loại cây nhỏ, có hoa nhỏ hình chuông màu tím, hay hồng nhạt.
Loại Ericagồm nhiều giống khác nhau từ giống cây nhỏ mọc từng bụi nhỏ hoặc có thể là cây lớn.
– Erica arborea, treeheath, briar, brier: cây nhỏ ở vùng Địa Trung Hải có chùm hoa trắng hình chùy, thơm và có rễ cứng như gỗ được dùng để làm ống điếu hút.
– Giống Erica carnea, spring heather, winter heather, là loại cây hoa nhỏ mùa đông hay mùa xuân, ở Âu châu có hoa hình chuông màu đỏ hay hồng.
– Giống E. cinerea: loại thạch thảo có lá nhỏ, hoa hình chuông màu đỏ tím
– Giống E. tetralix, bellheather, cross-leaved heath là loại cây nhỏ lùn có hoa màu hồng
– Giống E. vagans hay còn gọi là Cornish heath là loại thạch thảo mọc cả bụi có hoa màu hồng hay trắng thường thấy ở cánh đồng hoang tại Cornish và đông nam Ấu châu.
– Giống E. lusitanicahay Portugese heath, Spanish heath mọc rậm rạp ở vùng bán đảo Iberia, có hoa trắng hồng.
– Giống E. perspicua hay Prince of Wales heath mọc rất nhiều ở Anh quốc và Nam Phi châu, có hoa màu trắng. Hoa dài và trông tựa như chùm lông của huy hiệu trên Coat of Arms của Hoàng tử xứ Wales- Anh Quốc, nên mang tên Prince-of-Wales heath
– Erica mammosalà loại Erica có nhiều màu nhất từ màu trắng, tím, cam đến màu đỏ. Hoa chuông đặc biệt dài hơn các loại Erica khác (1)
Nếu nói về ý nghĩa của màu hoa thạch thảo thì thạch thảo trắng tượng trưng cho sự che chở, cho sự mong mỏi. Thạch thảo mầu hồng tượng trưng cho may mắn, và màu xanh lạt lavender tượng trưng cho cô đơn, sự hâm mộ thán phục. (2)
Bài thơ L’Adieu
Bài thơ nguyên tác của Guillaume Apollinaire (1880-1918) như sau.
L’Adieu J’ai cueilli ce brin de bruyère L’automne est morte souviens-t’en Nous ne nous verrons plus sur terre Odeur du temps brin de bruyère Et souviens-toi que je t’attends
Bản dịch của Bùi Giáng
Bài thơ năm câu trên đây đã đuợc nhà thơ Bùi Giáng dịch như sau.
Lời vĩnh biệt
(1) Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi Chúng ta sẽ không tao phùng đựợc nữa Mộng trùng lai không có ở trên đời Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó ...
Nhưng Bùi Giáng không phải chỉ dịch một lần. Nhà thơ Bùi Giáng đã khai triển và tiếp tục viết sang bài thứ hai.
(2) Đã hái nhành kia một buổi nào Ngậm ngùi thạch thảo chết từ bao Thu còn sống sót đâu chăng nữa Người sẽ xa nhau suốt điệu chào Anh nhớ em quên và em cũng Quên rồi khoảnh khắc rộng xuân xanh Thời gian đất nhạt mờ năm tháng Tuế nguyệt hoa đà nhị hoán tam.
Và tiếp tục dịch thoát ý sang bài thứ ba.
(3) Mùa thu chiết liễu nhớ chăng em? Đã chết xuân xanh suốt bóng thềm Đất lạnh qui hồi thôi hết dịp Chờ nhau trong Vĩnh Viễn Nguôi Quên Thấp thoáng thiều quang mỏng mảnh dường Nhành hoang thạch thảo ngậm mùi vương Chờ nhau chín kiếp tam sinh tại Thạch thượng khuê đầu nguyệt diểu mang. …
Bùi Giáng (1925-1998) dịch (“Đi vào cõi thơ”. Bùi Giáng, trang 80-82, nhà xuất bản Ca Dao, Sàigon, Việt Nam.1969)
**
Và dưới đây là: Mùa Thu Chết
Mùa thu chết là tên một bài hát của Phạm Duy sáng tác năm 1965, phổ từ bài thơ tiếng Pháp L’Adieu của Guillaume Apollinaire. Bài này rất nổi tiếng trong thập niên 70 tại Sài Gòn, và gắn liền với tên tuổi ca sĩ Julie (Quang).
“Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo Em nhớ cho: Mùa Thu đã chết rồi! Mùa Thu đã chết, em nhớ cho Mùa Thu đã chết, em nhớ cho Mùa Thu đã chết, đã chết rồi. Em nhớ cho! Em nhớ cho, Đôi chúng ta sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa! Trên cõi đời này, trên cõi đời này Từ nay mãi mãi không thấy nhau Từ nay mãi mãi không thấy nhau…
Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo Em nhớ cho: Mùa Thu đã chết rồi! Ôi ngát hương thời gian mùi thạch thảo Em nhớ cho rằng ta vẫn chờ em. Vẫn chờ em, vẫn chờ em Vẫn chờ…. Vẫn chờ… đợi em!”
Mùa Thu Chết (Phạm Duy)
Vài hàng tiểu sử Guillaume Apollinaire (28 August 1880-09 November 1918)
Guillaume Apollinaire: tên thật Wilhelm Albert Vladimir Apollinaris Kostrowitcki, nhà thơ Pháp gốc Ba Lan, sinh ở Roma, Italy.
Nãm 1887 Wilhelm Kostrowitzky cùng gia đình mẹ chuyển về Monaco và học ở Monaco, Cannes. Từ nãm 1899 chuyển về sống ở Paris, làm thơ, viết báo với bút hiệu Guillaume Apollinaire, ông cộng tác với một số tờ báo như La Revue blanche, La Plume và Le Mercure de France. Năm 1903, ông lập ra các tờ tạp chí của chính mình Le Festin d”Esope (November 1903-August 1904) và La Revue immoraliste (1905).
Năm 1912 ông cùng bạn bè thành lập tạp chí “Les soirées de Paris” và làm chủ bút từ năm 1913. Cũng trong năm này in bài thơ nổi tiếng nhất của ông: Le Pont Mirabeau và trường ca Zone. Năm 1913 ông phát hành tập thơ Alcools (Rượu), và năm 1914 có xuất bản một số bài thơ viết theo kiểu tạo hình. Apollinaire mất ngày 9 tháng 11, năm 1918 tại Paris, Pháp. Mộ ông chôn ở nghĩa trang Père Lachaise ở Paris.
Bàn luận về bài thơ L’Adieu
Apollinaire làm bài thơ L’Adieu làm sau khi đi thăm mộ con gái của Victor Hugo vào ngày 16 September 1913.
Arnaud Laster, Giáo sư văn chương tại trường Sorbonne (University of Paris III), trong một bài viết đã đặt câu hỏi: “Có phải Apollinaire đã viết bài L’Adieu này để tưởng nhớ Victor Hugo sau khi đi thăm mộ người con gái của Hugo tên là Léopoldine đã chết đuối cùng chồng ở biển tại tỉnh Villequier vào năm 1843”. Bài này có thể có liên hệ với bài Demain, dès l’aube và là nguồn cảm xúc để Apollinaire sáng tác bài L’Adieu chăng? (6)
Trước khi tìm hiểu, cần phải nhắc đến bài thơ Demain dès l’aube của Victor Hugo
Bài Demain, dès l’aube là bài thơ Victor Hugo (1802-1885) đã làm vào năm 1847 (đề ngày 03 September 1847) đề tặng con gái đúng 4 năm sau ngày Léopoldine chết (04 September 1843). Sự mất mát lớn lao này đã làm Hugo đau khổ suốt một thời gian dài và ông đã không in thêm tập thơ nào nữa trong mười năm sau cái chết của Léopoldine.
Demain, dès l’aube…
Demain, dès l’aube, à l’heure où blanchit la campagne, Je partirai. Vois-tu, je sais que tu m’attends. J’irai par la forêt, j’irai par la montagne. Je ne puis demeurer loin de toi plus longtemps.
Je marcherai les yeux fixés sur mes pensées, Sans rien voir au dehors, sans entendre aucun bruit, Seul, inconnu, le dos courbé, les mains croisées, Triste, et le jour pour moi sera comme la nuit.
Je ne regarderai ni l’or du soir qui tombe, Ni les voiles au loin descendant vers Harfleur, Et quand j’arriverai, je mettrai sur ta tombe Un bouquet de houx vert et de bruyère en fleur.
Victor Hugo 03 September 1847 (Les Contemplations- cuốn IV.1856)
Ngày Mai, Từ Rạng Đông
Ngày mai, từ rạng đông lúc trời đồng quê bắt đầu sáng Cha sẽ đi, Con thấy không cha biết con đang chờ cha Cha sẽ vượt qua rừng, cha sẽ vượt qua núi. Cha không thể nào xa cách con lâu dài hơn được nữa Cha sẽ đi, đôi mắt chãm chú vào suy nghĩ của cha Chẳng hề màng nhìn chung quanh, không màng nghe một tiếng động Một mình, không ai biết, lưng còng, hai bàn tay đan nhau Sầu buồn, và ngày đối với cha cũng tựa như đêm thôi. Cha sẽ không màng nhìn chiều vàng đang đổ xuống, Hay những cánh buồm xa đằng phía cảng Harfleur, Và khi cha đến nơi, cha sẽ đặt trên mộ của con Một bó hoa có ô-rô xanh cùng thạch thảo đang nở. (Sóng Việt phỏng dịch nghĩa)
Cái chết của Léopoldine ảnh hưởng mạnh trên Victor Hugo đến độ ông bị ám ảnh vì cô, ông tự hỏi bây giờ Léopoldine ở đâu sau khi chết. Ông tìm kiếm cô qua khung cửa tối tăm của vĩnh cửu, và ông cũng tìm kiếm cô ở ngoài cỗ quan tài, với hy vọng cô thấy có một bóng người đi qua cỗ quan tài đen mà ông tưởng tượng là được đóng lỏng lẻo, người đó chính là ông đã tìm đến bên cô trong bóng tối thiên thu.
“Dis, qu’as-tu fait pendant tout ce temps-là ? – Seigneur, Qu’a-t-elle fait ? – Vois-tu la vie en vos demeures ? A quelle horloge d’ombre as-tu compté les heures ? As-tu sans bruit parfois poussé l’autre endormi ? Et t’es-tu, m’attendant, réveillée à demi ? T’es-tu, pâle, accoudée à l’obscure fenêtre De l’infini, cherchant dans l’ombre à reconnaỵtre Un passant, à travers le noir cercueil mal joint, Attentive, écoutant si tu n’entendais point Quelqu’un marcher vers toi dans l’éternité sombre ? Et t’es-tu recouchée ainsi qu’un mât qui sombre, En disant : Qu’est-ce donc ? mon père ne vient pas ! Avez-vous tous les deux parlé de moi tout bas ?” [“A celle qui est restée en France,” 393]
Một đoạn thơ khác ông kể lể con gái chết là ông mất tất cả, ông đã chôn vùi cả ước mơ, cả hy vọng, cả tình yêu vào trong nấm mồ mà ông đào trong lồng ngực của ông:
“Qu’ai-je appris ? J’ai, pensif , tout saisi sans rien prendre ; J’ai vu beaucoup de nuit et fait beaucoup de cendre. Qui sommes-nous ? que veut dire ce mot : Toujours ? J’ai tout enseveli, songes, espoirs, amours, Dans la fosse que j’ai creusée en ma poitrine. Qui donc a la science ? où donc est la doctrine ? Oh ! que ne suis-je encor le rêveur d’autrefois, Qui s’égarait dans l’herbe, et les prés, et les bois, Qui marchait souriant, le soir, quand le ciel brille, Tenant la main petite et blanche de sa fille, Et qui, joyeux, laissant luire le firmament, Laissant l’enfant parler, se sentait lentement Emplir de cet azur et de cette innocence !” [“A celle qui est restée en France,” 395]
Bộ Les Contemplations gồm 6 cuốn sách. Cuốn số 4 gồm 17 bài thơ làm riêng cho Léopoldine có đề tựa Pauca meae (vài câu thơ cho con gái tôi). Những bài đầu trong tập 4 ghi ngày làm 3 năm sau ngày con gái ông chết đuối với người chồng mới cưới cỡ 6 tháng. Sự mất mát Léopoldine là một sự mất mát quá lớn lao, nó ăn sâu vào suy nghĩ của V. Hugo làm ông suy tưởng về ý nghĩa của đời sống và tìm cách giải đáp bí ẩn của cái chết cùng thế giới vô hình. Tìm cách giải thích bí ẩn của cái chết có nghĩa là tìm lại được Léopoldine và giải đáp ðược thắc mắc về cái chết. Tuy Hugo đã không thành công trong việc nối kết được với thế giới vô hình, nhưng ông có lòng tin vào Thông linh học/Tâm linh học (Spiritiualism). Hơn mười năm sau cái chết của Léopoldine , sách đã ghi lại là ông đã tham dự nhiều lần vào ngồi bàn cầu hồn, và đã có lần người gọi hồn đã gọi được hồn Leopoldine lên gặp ông. Tưởng cũng nhắc rằng Victor Hugo được Đạo Cao Đài ở Việt Nam tôn sùng như là một trong ba vị thánh mà họ thờ phụng (Tam Thánh: Sun Yat Sen /Tôn Dật Tiên, Victor Hugo, và Nguyễn Bỉnh Khiêm).(7)
Bài thơ L’Adieu (và cả bài Le Pont Mirabeau) của Guillaume Apollinaire đã là đề tài bàn luận và làm tốn khá nhiều giấy bút cho những ai muốn phân tích và tìm hiểu thơ ông. Lý do vì Apollinaire làm thơ mà không hề bỏ dấu vào bài, thí dụ như dấu phẩy, dấu chấm, hay dấu ngoặc đôi (quotation-marks) tại mỗi câu thơ cần bỏ vào trong ngoặc đôi.
Vì thế khi đọc bài thơ không dấu L’Adieu của ông, hai câu chót làm độc giả phải phân vân không biết đó là do nhân vật với đại danh từ Je ở câu đầu vẫn tiếp tục nói hay là đó là lời trả lời của nhân vật thứ hai, được tạm thời bỏ trong ngoặc cho dễ hiểu như sau :
“Odeur du temps brin de bruyère Et souviens-toi que je t’attends”
Nếu như hai câu này đã ở trong ngoặc đôi thì rõ ràng là câu trả lời của nhân vật thứ hai:
“Mùi hương thời gian nhành hoa thạch thảo Và cha nhớ rằng con chờ đợi cha”.
(Với lý luận người chết chờ người còn sống xuống âm phủ với mình chứ người chết làm sao trở lại trần gian như ông đã than ở câu trên).
Lối làm thơ mang vào trong ngoặc đôi của Victor Hugo rất quen thuộc vì ông luôn đóng vai người cha hỏi hay nói rồi trả lời thay cho con như thể chính người con gái nói với ông.
Kết luận
Tóm lại, liệu bài thơ L’Adieu có thể xem như là do Guillaume Apollinaire cảm tác và tưởng niệm Victor Hugo một cách gián tiếp sau khi thăm nhà mồ của Léopoldine và đọc bộ sách Les Contemplations của Victor Hugo không?
Và nếu đúng như thế thì ba câu đầu của bài thơ L’Adieu có thể hiểu như là Apollinaire đã viết thay lời của V. Hugo để nói với con gái đã chết, và trong hai câu chót người con gái yêu của V. Hugo đã trả lời rằng cô mong muốn và chờ gặp lại cha cô ở thế giới vô hình? Hiểu như thế chúng ta sẽ không còn có thắc mắc cho câu chót trong nguyên tác “Et souviens-toi que je t’attends” và trong những bản dịch của nhà thơ Bùi Giáng.
L’Adieu J’ai cueilli ce brin de bruyère L’automne est morte souviens-t’en Nous ne nous verrons plus sur terre Odeur du temps brin de bruyère Et souviens-toi que je t’attends
(Guillaume Apollinaire)
Và bài thơ mà Bùi Giáng dịch:
Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi Chúng ta sẽ không tao phùng được nữa Mộng trùng lai không có ở trên đời Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó …
(Bùi Giáng dịch)
Có thể hiểu như sau:
Cha đã hái nhành lá cây thạch thảo Con nhớ cho, mùa thu đã chết rồi Chúng ta sẽ không tao phùng được nữa Mộng trùng lai không có ở trên đời Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi Và nhớ nhé con đợi chờ cha đó
(Sóng Việt thay đại danh từ)
Hoặc có thể vì Appollinaire biết rằng V. Hugo tin vào Thông linh học, và Hugo đã có lần được tiếp xúc với Leopoldine qua bàn cầu hồn, thì chúng ta cũng có thể cho rằng Apollinaire đã viết thay lời cho V. Hugo nói chờ hồn Leopoldine hiện về thế gian để gặp ông: “Và con nhớ rằng cha chờ đợi con”:
Odeur du temps brin de bruyère Et souviens-toi que je t’attends
Mùi hương thời gian nhành cây thạch thảo Và con nhớ rằng cha chờ đợi con. (Sóng Việt dịch)
Cái khó khăn khi dịch một bài thơ Pháp ngữ sang Việt ngữ là những đại từ nhân xưng. Trong khi Pháp ngữ chỉ có một số chữ cho ngôi thứ nhất và thứ hai như je, me, tu, te, toi, moi, vous, nous, thì trong tiếng Việt đại từ nhân xưng rất phong phú; cách dùng những đại từ nhân xưng này như anh, em, cô, chú, ông, bác, dì, dượng, tôi, con, cháu, mày, tao, v.v cho người đọc biết sự liên hệ thứ bậc, thái độ và tình cảm của những người giao tiếp với nhau. Khi dịch thơ nếu không hiểu biết rõ hoàn cảnh và thời điểm bài thơ được làm nên thì đôi khi sự sai lầm có thể xẩy ra.
Bài thơ L’Adieu mà Bùi Giáng dịch có thể là do cố ý của Bùi Giáng để tạo thành một bài thơ tình cảm nói về sự chia lìa của đôi nhân tình dù ông biết bài thơ nguyên tác có ý nghĩa khác chăng?
Và có thể nhờ do cố ý hay vô tình dịch như thế (dùng chữ ta, em, thay vì cha, con), mà bài thơ đã là nguồn cảm hứng cho nhạc sĩ sáng tác bản nhạc Mùa Thu Chết?
Không có Hoa Thạch Thảo thì làm sao có Lời Vĩnh Biệt, Không có Lời Vĩnh Biệt thì làm sao có Mùa Thu Chết?
Hoa thạch thảo (bruyère) được nhiều thi sĩ mang vào thơ nhưng có thể nói rằng hoa thạch thảo đã được đời đời gắn liền với bài thơ Demain, dès l’aube của Victor Hugo và L’Adieu của Guillaume Apollinaire.
Trong một bài viết về mối tình 10 năm của nhạc sỹ Phạm Duy và nàng thơ Lệ Lan, [dongnhacxua.com] đã giới thiệu bản “Tôi đang mơ giấc mộng dài”. Rồi khi “người đã đi rồi”, nhà nhạc sỹ của chúng ta lại cho ra một nhạc phẩm tuyệt vời khác: “Nghìn trùng xa cách”.
(TT&VH) – Tối 22 – 23/7, tại NH Lớn Hà Nội, NH Ca múa nhạc nhẹ VN tổ chức đêm nhạc Phạm Duy – Người phiêu lãng thành công. Khán giả đã tỏ lòng yêu mến với ông không chỉ dành cho tài năng, mà còn bởi lời phát biểu ngắn gọn mà sâu sắc: “Còn gì hạnh phúc hơn khi được sống và chết trên quê hương mình”.
Niềm sung sướng, hạnh phúc nhất của lão nhạc sĩ tuổi 90, là công bố và cống hiến gia tài âm nhạc đồ sộ cho đồng bào nơi đất mẹ. Tiếng mẹ đẻ vang lên trong tác phẩm Phạm Duy thấm đẫm tình tự dân tộc như Tình ca: “Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời”.
Vóc dáng cao lớn 1m75, tóc trắng như cước, Phạm Duy vẫn toát lên vẻ phong lưu, dù cử chỉ chậm nhiều. Ông phải ngồi xe đẩy tại sân bay, cẩu lên khoang hạng C, mỗi lần ra Bắc.
Tại tầng 4 khách sạn 3 sao Hà Nội số 1 Cầu Gỗ, nhạc sĩ Phạm Duy dành cuộc trò chuyện với TT&VH trước khi rời Hà Nội sáng 24/7.
* Ông từng ưng ý nhất hai ca sĩ Thái Thanh và Duy Quang hát nhạc Phạm Duy. Đức Tuấn là thế hệ kế tiếp, làm khán giả cảm động và bất ngờ khi hát Bà mẹ Gio Linh trong nước mắt…
– Thái Thanh (em gái bà Thái Hằng – vợ Phạm Duy – 78 tuổi, hiện đang sống tại California, có con gái là ca sĩ Ý Lan) trước đây hát bài này lần nào cũng khóc. Mỗi ca sĩ có một nét đặc biệt riêng. Các cháu trẻ hát nhạc tôi, tôi thấy vui và trân trọng.
* Ông đã trao quyền tác giả cho Công ty Phương Nam, đổi lại họ giao cho ông ngôi nhà trong hẻm đường Lê Đại Hành, phường 13, quận 11, TP.HCM. Hồi hương từ 2005, ông thực sự an cư?
– Tôi ở ngôi nhà ấy từ 2005, khi về nước, có quốc tịch VN. Đến nay, tôi vẫn chưa chính thức có sổ đỏ sở hữu. Phương Nam có quyền khai thác tác phẩm Phạm Duy 10 năm, khi nào hết thời gian đó, nhà mới thuộc về tôi. Nếu có rủi ro trước 2015, thì con trai Duy Minh là đại diện pháp luật và bản quyền. Phương Nam lo xin phép phát hành, giờ mới được hơn 80 bài. Tôi không thể sống lâu đến được ngày công bố được 1/5 gia tài âm nhạc, một ước mơ dữ dội.
* Xin được hỏi về cuộc sống và sức khoẻ hiện nay của ông?
– Vẫn mang quốc tịch Mỹ, đã rời khỏi Mỹ nên tôi không còn bảo hiểm, bị cắt hết chế độ thuốc, chỉ còn lương người già 500 USD/tháng.
Mỗi ngày, tôi phải uống 11 viên thuốc cho các bệnh huyết áp cao, tiểu đường, tim đập nhanh (đã qua hai lần đại phẫu). Hiện tôi không có bảo hiểm gì, thuốc thì con cái mang về hoặc mua tại đây.
* Gia đình ông đã 3 đời nổi tiếng. Ông có lo khi đàn cháu chưa thấy ai ham nghệ thuật?
– Ba đời là đủ.
Chưa tìm thấy mộ bố mẹ mình
* Gần như không mặc cảm quá khứ rời Hà Nội từ 1950, ông vẫn luôn yêu Hà Nội một cách đặc biệt. Nơi đây còn chất chứa day dứt lớn của ông?
– Đúng, một sự mất mát khủng khiếp. Khi trở lại đây, bạn bè ấu thơ không còn, nhiều điểm đổi thay. Chọn ở Khách sạn Salut phố Hàng Dầu để sống với ký ức phố nhà. Lần này Salut sửa chữa nên phải đổi chỗ khác. Chợ Hàng Bè không còn như xưa, hồ Gươm nhỏ lại. Xưa đường Cổ Ngư vắng lặng êm đềm, giờ chỉ toàn người và người chen lấn. Tôi nhớ những lần đạp xe qua cầu Long Biên, đổ dế, trèo cây, đá bóng, khoét lỗ coi “cọp” phim câm tại Cinéma Pathé, rạp gần đền Bà Kiệu. Và những thứ đã mất vĩnh viến khiến tôi xa xót.
Tôi bỏ bao tâm sức đến giờ vẫn chưa tìm thấy mộ bố mẹ mình. Bố mất năm 46 tuổi hồi tôi mới lên 2. Người ta bảo mộ mẹ tôi ở chùa Liên Phái, tôi tìm mà bất lực. Lẽ nào bố mẹ đã hoà vào đất Hà thành? Không muốn không dám tin, tôi và con cháu mất vĩnh viễn xương cốt người ruột thịt không tìm được. Tôi nhớ mẹ cha mà viết những bài ca gan ruột: Cho tôi lại ngày nào/ Trăng lên đầu ngọn cau/Mẹ tôi ngồi khâu áo/Bên cây đèn dầu hao/Cha tôi ngồi xem báo/Phố xá vắng hiu hiu.
Bí mật mối tình 10 năm
* Ông có tiếng là vô cùng đào hoa. Bởi vậy ông viết tình ca hay đến thế?
– Tôi yêu nhiều vì cũng được/bị yêu nhiều, đa tình quá thì sao “chống đỡ” được các nàng? Mà chỉ 1 vợ, 1 dòng con, chưa lần nào ruồng rẫy vợ con. Tôi không “tu” được đường tình (cười).
* Ông có nhiều cuộc tình, bà Thái Hằng vợ ông biết cả mà không ghen?
– Thái Hằng ghen âm thầm mà khiến tôi nể lắm. Không bao giờ căn vặn, cãi vã, ồn ào. Đi đâu tôi cũng về nhà, không ngủ đêm bên ngoài.
Tôi có mối tình với một cô gái Sài Gòn suốt 10 năm, khi ấy tôi đã lấy vợ. Cô ấy thích gì, ghét gì, tôi đều đồng cảm. Đó là tình yêu chỉ có ôm hôn, không gì hơn, hoàn toàn thơ mộng theo khía cạnh tinh thần, hợp nhau lắm. Nàng đã viết gần 300 bài thơ và thư cho tôi. Một lần sinh nhật Phạm Duy, nàng cắt 1 lọn tóc tặng, giờ tôi vẫn giữ. Khi yêu nàng, tôi viết Tôi đang mơ giấc mộng dài, phổ thơ nàng đấy.
* Nàng là nguyên cớ của bài Nghìn trùng xa cách mà Mỹ Linh thể hiện thật xuất sắc trong live show vừa rồi: “Mời nàng lên xe, về miền quá khứ”. Ông tiễn người yêu và mối tình 10 năm lý tính thế sao?
– Bài này Thu Phương từng hát thật hay. Mỹ Linh hát rất khắc khoải, tha thiết. Sau 10 năm yêu tôi, nàng lấy chồng, hai bên có gia đình riêng, phải dứt khoát chia tay. Còn gì đâu nữa/Mà khóc với cười/Còn gì đâu nữa/Mà giữ cho người.
Kể từ khi nàng xuất giá, thì tình yêu nơi tôi không còn tiếp tục nữa, dù tôi vẫn giữ lọn tóc đến giờ. Sau này gặp lại cô ấy có 3 con, chồng cô ghen lắm, dù chẳng có gì xảy ra, tình xưa không nối lại được, tôi lại viết bài Chỉ chừng đó thôi. Sau đó biết bà ấy sống cùng một thành phố bên Mỹ cũng chẳng thiết gặp. Già rồi, làm sao như xưa được.
Có “lương” Việt Nam
* Từ khi về nước, ông đã viết tác phẩm mới nào?
– Tôi tâm đắc với thanh xướng kịch Minh hoạ Kiều (1997) từ tuyệt tác của Nguyễn Du, tiếc là nó chưa được diễn rộng rãi ở VN. Tôi có viết 10 bài phổ thơ Bích Khê. Tôi bận rộn với việc biên tập, biên soạn tác phẩm để Phương Nam in ấn sách, đĩa, lo biểu diễn, phát hành. Tiền tác quyền từ đấy, là “lương” Việt Nam của tôi.
* “Kiếp nào có yêu nhau/Thì xin đừng đến thương đau/Hoa xanh khi chưa nở/Tình xanh khi chưa lo sợ”, câu hát ám ảnh quá. Chẳng lẽ với ái tình, không nên yêu tin hết mình, hiến dâng tột độ?
– Hoa nở hết sẽ tàn, ái tình bạo liệt vì người khác đến cùng, sẽ tới lúc mệt, có thể tàn phai hoặc bị phụ. Như Mẹ, quê hương không bao giờ chối bỏ, phản bội những đứa con. Chỉ có tình quê hương, tình tự dân tộc là tình xanh mãi mãi. Đó là tình yêu cao nhất, nguyên uỷ và vĩnh cửu. Tôi mong trở lại Hà Nội bằng đêm nhạc sinh nhật ngày 5/10.
Trong dòng nhạc xưa, chúng ta đôi khi bắt gặp những hình mẫu có thật ngoài đời được các nhạc sỹ hay thi sỹ đưa vào trong các sáng tác. Đó có thể là Diễm trong “Diễm Xưa” hay Duyên trong “Thà Như Giọt Mưa”. Hôm nay, [dongnhacxua.com] xin giới thiệu thêm Ngọ trong “Ngày Xưa Hoàng Thị”, thơ Phạm Thiên Thư qua nét nhạc Phạm Duy.
Đầu thập niên 70 của thế kỷ trước, ca khúc Ngày xưa Hoàng Thị (thơ Phạm Thiên Thư, Phạm Duy phổ nhạc) đã từng gây xôn xao trong đời sống âm nhạc miền Nam. Cả thơ lẫn nhạc đều rất tuyệt vời…
Từ tiếng hát cao vút của Thái Thanh, những ca từ của Ngày xưa Hoàng Thị chấp chới đi vào hồn người: “Em tan trường về, đường mưa nho nhỏ. Chim non lề đường, nằm im giấu mỏ. Anh theo Ngọ về, gót giày lặng lẽ đường quê…”. Phải nói rằng, dạo đó thơ Phạm Thiên Thư là hiện tượng, bởi sau thành công của Ngày xưa Hoàng Thị, nhạc sĩ Phạm Duy phổ thêm liên tiếp những ca khúc từ thơ Phạm Thiên Thư: Đưa em tìm động hoa vàng, Em lễ chùa này, Gọi em là đóa hoa sầu… Người ta đua nhau tìm đọc thơ Phạm Thiên Thư – một tu sĩ Phật giáo – bởi hơi hướm thơ vừa nhuốm mùi thiền vừa vương tình trần. Thơ lục bát của Phạm Thiên Thư quá hay mà thơ 4 chữ (như bài Ngày xưa Hoàng Thị) lại cũng tuyệt… Chẳng thế mà tập thơ Đoạn trường vô thanh (hậu Kiều) của ông được trao Giải nhất văn chương – thể loại trường ca (Sài Gòn – năm 1973)… Rồi người ta đoán già, đoán non cô Hoàng Thị Ngọ là ai mà có sức hấp dẫn đến thế, khiến cho người thơ đã nương cửa Phật vẫn phải vướng mùi tục lụy?
“Anh tìm theo Ngọ…”
Phải đến 40 năm sau tôi mới có dịp diện kiến nhà thơ Phạm Thiên Thư, khác với những gì tôi mường tượng: tác giả Ngày xưa Hoàng Thị không mang dáng dấp thư sinh, nho nhã mà đẹp như một… “lão ngoan đồng”. Ông hiện là chủ quán cà phê Hoa Vàng ở cư xá Bắc Hải (Q.10, TP.HCM), tên quán chắc là để nhắc nhớ đến ca khúc ‘Đưa em tìm động hoa vàng’ nổi tiếng một thời?
Câu đầu tiên ông “chào” tôi là một câu lục bát: “Dễ gì được một vần thơ/Mà nghe nghiệp chướng, lại ngờ tiền oan”.
Rồi ông kể về Ngọ: “Rất đơn giản, tôi tuổi Thìn (1940), còn cô ấy tuổi Ngọ (1942) cho nên được bố mẹ đặt luôn tên là Ngọ. Cách nhau 2 tuổi nhưng học cùng lớp đệ tam (lớp 10 bây giờ) ở trường Trung học Văn Lang (khu Tân Định). Ngọ có dáng người thanh mảnh với mái tóc dài thả ngang vai. Mỗi khi xếp hàng vào lớp, cô ấy đứng đầu hàng bên nữ, tôi đứng cuối hàng bên nam, tha hồ ngắm… Vào lớp, cô ấy ngồi bàn đầu, tôi bàn cuối. Ngọ học rất giỏi, còn tôi chỉ giỏi… đánh lộn (gia đình tôi vốn có truyền thống võ thuật). Có lần thầy giáo gọi tôi lên trả bài, tôi không thuộc nhưng thay vì lên tận bàn thầy giáo trên bục giảng, tôi chỉ đi đến ngang chỗ Ngọ ngồi thì dừng lại. Ngọ biết ý, mở cuốn tập ra cho tôi… liếc, đọc vanh vách!
Nhà tôi ở đường Trần Khát Chân, nhà Ngọ ở Trần Quang Khải, cũng cùng khu Tân Định nên đi về chung đường. Mỗi lần tan trường, cô ấy ôm cặp đi trước, tôi lẽo đẽo theo sau. Tóc Ngọ bay bay trên đôi vai gầy nhỏ nhắn. Có những hôm trời mưa lất phất, cô ấy đưa cặp lên che ngang đầu. Tôi thấy thương quá, muốn làm một cử chỉ gì đó như là để chở che nhưng… thở mạnh còn không dám, nói chi là…
Đậu tú tài xong tôi vào Đại học Vạn Hạnh”…
“Tại sao ông lại trở thành tu sĩ Phật giáo?”.
“À, như đã nói, gia đình tôi vốn có truyền thống con nhà võ, từng lập “Học hội Hồ Quý Ly” quy tụ cả trăm người, khiến chính quyền miền Nam lúc ấy nghi ngờ, phải giải tán. Năm 1964 tôi “trôi dạt” vào “ăn cơm chay” ở các chùa: Vạn Thọ (Q.1), Kỳ Quang, Bà Đầm (Q.Phú Nhuận), rồi Đại học Vạn Hạnh… Cho dù đã nương thân vào cửa chùa nhưng mỗi lần đi ngang qua con đường cũ, hình ảnh cô học trò ôm cặp, tóc dài bay bay trong gió vẫn thấp thoáng đâu đây… Và rồi những tứ thơ tràn về: “Em tan trường về/Đường mưa nho nhỏ/Chim non giấu mỏ/Dưới cội hoa vàng/Bước em thênh thang/Áo tà nguyệt bạch/Ôm nghiêng cặp sách/Vai nhỏ tóc dài… Em tan trường về/Cuối đường mây đỏ/Anh tìm theo Ngọ/Dáng lau lách buồn… Em tan trường về/Đường mưa nho nhỏ/Trao vội chùm hoa/Ép vào cuối vở/Thương ơi vạn thuở… Ôi mối tình đầu/Như đi trên cát/Bước nhẹ mà sâu… Mười năm rồi Ngọ/Tình cờ qua đây/Cây xưa vẫn gầy/Phơi nghiêng dáng đỏ/Áo em ngày nọ/Phai nhạt mấy màu/Chân theo tìm nhau/Còn là vang vọng… Dáng ai nho nhỏ/Trong cõi xa vời/Tình ơi… Tình ơi!”…
“Tại sao nhạc sĩ Phạm Duy biết thơ ông để phổ nhạc?”.
“Là thế này, năm 1968, tôi có ra tập thơ đượm mùi thiền Phật giáo, in rất ít, chỉ để tặng bạn bè. Cụ Nguyễn Đức Quỳnh (nhà văn) đọc thấy thích mới giới thiệu với nhạc sĩ Phạm Duy, và nhạc sĩ đã phổ 10 bài đạo ca của tôi. Đó là cái duyên để đến năm 1971, nhạc sĩ Phạm Duy lại phổ nhạc bài Ngày xưa Hoàng Thị. Lạ một điều là bà xã tôi bây giờ lại rất giống Ngọ, có thể nói là một chín, một mười”.
Người viết tuy ngồi trong (động) Hoa Vàng nhưng tiếc ngẩn ngơ vì không được may mắn diện kiến nữ chủ nhân để ít ra cũng có thể hình dung được một nhan sắc thuở nào…