[dongnhacxua.com] xin gởi đến những người yêu dòng nhạc xưa một bài viết của nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân về một trong những bóng hồng đi qua trong đời của nhạc sỹ Phạm Duy: cô Lệ Lan. Và cũng nhờ đó mà chúng ta có được hai bản “Ngày đó chúng mình” và “Tôi đang mơ giấc mộng dài”.
Chuyện này đã đến với tôi rất sớm và từ nhiều mối. Có thể từ những năm cuối của thập niên 50 của thế kỷ trước. Thông tin về chuyện tình này tôi ghi lại từ nhạc sĩ Phạm Duy trong những trường hợp rất tình cờ. Rồi thỉnh thoảng tôi hỏi ông một câu để check lại một sự việc đã đến với tôi từ các nguồn đáng tin cậy khác.
Tôi biết rõ chuyện tình ấy nên sau khi đọc Hồi ký của ông, từ Pháp (1996), qua điện thoại vệ tinh, tôi hỏi ông: “Chuyện tình thơ nhạc của anh với Lệ Lan sâu đậm và ảnh hưởng đến nhiều nhạc phẩm của anh như thế, đã in ấn, tái bản nhiều lần “nhạc Phạm Duy-thơ Lệ Lan” như thế, sao không thấy anh viết gì trong Hồi ký của anh cả vậy?”. Phạm Duy trả lời: “Bà ấy bây giờ sống rất hạnh phúc với một ông chồng biết thương yêu vợ và mấy đứa con ngoan.Tôi không nhắc lại mối tình thơ nhạc với bà làm gì, sợ ảnh hưởng đến hạnh phúc của người mình từng yêu mến suốt mười năm”. Tôi hơi bị sốc nên nói ngay: “Một chuyện có ảnh hưởng đến âm nhạc của anh như thế mà anh không viết thì em sẽ viết”. Phạm Duy biết tính tôi “nói là làm” nên bảo tôi: “Em là người cầm bút ở trong nước, tùy em!”.
Vào khoảng cuối những năm 50 của thế kỷ 20, trên báo Công Dân ở Huế có đăng chuyện một người đi tắm biển Thuận An vô tình nhặt được một tập thơ viết tay, nét chữ con gái mềm mại ký tên Hàn Lệ Lan hay Lâm Lệ Lan gì đó mà tôi không còn nhớ rõ. Bài báo trích đăng mấy bài thơ mới, nói lên một mối tình thơ kín đáo nhưng cũng cháy bỏng. Bài báo làm xôn xao dư luận những người làm thơ ở Huế lúc ấy. Phải chăng vừa xuất hiện thêm một nàng T.T.Kh. nữa? Sau đó một thời gian, tôi mua được mấy nhạc phẩm của Phạm Duy, trong đó có bài ghi: nhạc Phạm Duy – thơ Lệ Lan. Tôi lại nghĩ: Chắc nhạc sĩ Phạm Duy đọc báo thấy thích thơ của Lệ Lan nên phổ nhạc thế thôi. Không ngờ, đây là một “chiêu” để hợp thức hóa chuyện quan hệ tình cảm giữa nhạc sĩ Phạm Duy và nàng thơ bé nhỏ Lệ Lan, mở đầu cho một câu chuyện tình thơ nhạc kéo dài đến 10 năm.
Khoảng cuối tháng 7.1965, sau buổi hội thảo “Bắc tiến” do chính phủ Thiệu – Kỳ tổ chức ở Nhà hát Thành phố Sài Gòn, tôi bị nhiều phe phái ủng hộ chính phủ Thiệu – Kỳ rượt đánh. Phạm Duy định đưa tôi về ẩn náu tại nhà một người yêu của anh ở Lái Thiêu. Tôi hỏi người ấy là ai? Anh đáp: “Lệ Lan”. “Trời ơi, Lệ Lan? Người có thơ được anh phổ nhạc lâu nay phải không?”. “Đúng rồi!”. Ngay lúc đó, ông N.T.A. – Bộ trưởng Giao thông vận tải, là bạn Phật tử với tôi – cho người đến Nhà hát tìm và đưa tôi về ẩn náu trong nhà ông trên đường Đoàn Thị Điểm. Tôi chưa kịp về Lái Thiêu, bỏ mất một cơ hội nói chuyện thơ nhạc với Lệ Lan. Gần một năm sau, trong một buổi hát Tâm Ca tại một cơ sở Phật giáo, tôi gặp Lệ Lan. Một người con gái trên hai mươi tuổi, không phấn son mà đẹp như một tài tử xi-nê. Cô có đôi mắt thăm thẳm, đôi môi mọng như lúc nào cũng có thể khóc được. Nhưng gặp người đẹp giữa mùa tranh đấu mất còn nên tôi không chuyện trò gì được ngoài mấy câu thăm hỏi.
Sau đó không lâu, tôi về Huế rồi đi kháng chiến. Chuyện tình của Phạm Duy và Lệ Lan nhạt dần trong tâm trí tôi. Mãi đến cuối năm 1987, nhân có nhà báo Lê Quý Biên về nước, Phạm Duy viết thư nhờ tôi “lấy dùm anh một bó thư tình và 3 cuốn thơ tình anh gửi nơi anh Lê Ngộ Châu. Về già, ai cũng muốn ngó vào dĩ vãng. Em giúp cho Biên trả lại cho César nhé!” (Thư tay viết ngày 14.12.1987). Nhưng than ôi, tôi vào TP.HCM gặp ông Lê Ngộ Châu tại nhà riêng ở số 160 Nguyễn Đình Chiểu (Q.3) thì được biết hồi cuối những năm 70, có một họa sĩ thế hệ đàn anh của nhạc sĩ Phạm Duy đến thăm và bảo đã được sự đồng ý của Phạm Duy, hãy cho ông ta mượn đọc “bó thư tình và 3 cuốn thơ tình” nặng đến 5 ký của Phạm Duy. Lê Ngộ Châu là một người rất tin người, nhất là các bậc trưởng thượng từ Hà Nội vào. Tưởng thật, ông mở tủ lấy bó kỷ vật của Phạm Duy – Lệ Lan đưa cho người họa sĩ già. Và từ đó không còn biết người đó ở đâu để đòi lại nữa. Khi nhận được tin Phạm Duy xin nhận lại bó ảnh màu-thư-thơ tình, Lê Ngộ Châu ân hận vô cùng. Phạm Duy biết Lê Ngộ Châu đã bị lừa, nên chỉ trách ông nhẹ dạ chứ không giận.
Nhiều lần ông nhờ tôi ra Hà Nội tìm giúp cho ông. Nhưng tôi cũng bó tay. Từ đó, mỗi lần ghé thăm ông Lê Ngộ Châu, hai chúng tôi lại nói chuyện về mối tình 10 năm của Phạm Duy với Lệ Lan. Lê Ngộ Châu đã đọc hết bó thư và thơ của Phạm Duy và Lệ Lan. Ông kể cho tôi nghe và bảo tôi: “Nếu có dịp, có thể viết thành một cuốn tiểu thuyết. Người yêu âm nhạc Việt Nam sẽ rất thú vị khi biết được từ những động thái tình cảm nào giữa đôi tình nhân này mà Phạm Duy phổ thơ hay sáng tác nên những bản nhạc tình trong vòng 10 năm (1959-1969) ấy.”
Rất tiếc, bó thư chưa tìm được và Lê Ngộ Châu cũng đã từ giã cõi trần vào ngày 24.9.2006. Tôi viết bài “Mối tình thơ nhạc…” này một phần để ghi lại chuyện tình hiếm có trong đời sống văn học nghệ thuật Việt Nam, một phần để hiểu sâu sắc hơn âm nhạc của Phạm Duy và một phần cũng để chia sẻ bớt nỗi bận tâm vì làm mất kỷ vật của bạn ông chủ báo Bách Khoa Lê Ngộ Châu – người mà thế hệ của tôi ở miền Nam rất quý trọng.
Tình mẹ từ chối lại rơi vào…
Sống ở Hà Nội trong độ tuổi đôi mươi, chàng nhạc sĩ “hát rong” Phạm Duy có yêu một người con gái Hà thành. Người đẹp, lại xuất thân trong một gia đình khá giả, nên Phạm Duy chỉ được yêu thôi chứ chẳng được gì. Về sau, người đẹp lập gia đình, có con, hạnh phúc. Đến sau năm 1954, Phạm Duy được biết người đẹp đã di cư vào Sài Gòn; vắng bóng chồng, người đẹp chỉ sống với con. Nhớ người xưa, Phạm Duy tìm đến thăm rồi đàn hát thổ lộ tâm sự về những điều ngày xưa không bày tỏ với nhau được. Người đẹp rất quý trọng người bạn có chút tình cũ, nhưng luôn luôn giữ một khoảng cách. Nhiều lần Phạm Duy muốn lấp cái khoảng cách đó bằng âm nhạc, bằng tâm sự, bằng những lá thư tình, nhưng vô hiệu.
Không ngờ, tất cả những tình cảm của Phạm Duy dành cho người đẹp đã làm rung động trái tim của cô con gái còn rất nhỏ của nàng. Không ai ngờ tình yêu dành cho mẹ, bị mẹ từ chối lại rơi vào con – cô bé Lan. Lan đang tập tễnh làm thơ, bắt được nguồn cảm hứng yêu người bạn của mẹ, cảm thấy hạnh phúc vô cùng. Lan thể hiện sự khát khao yêu thương vào thơ và kín đáo gởi đến người bạn của mẹ. Nhận được tình yêu của cô bé – con gái của bạn mình – qua thơ, Phạm Duy vô cùng xúc động và bất ngờ.
Cho đến năm 1959, đã có hàng chục người đẹp “lao tới” và không bao giờ quên nhau, nhưng chưa từng có người nào trẻ và xuất hiện trong một hoàn cảnh “trớ trêu” đến như thế. Phạm Duy rất đắn đo, nhưng rồi ông bị cô bé “tấn công” bằng thơ liên tục. Dần dần, hình ảnh cô bé – con của người yêu cũ mờ dần và hiện lên trong tâm trí ông hình ảnh tác giả của những bài thơ tình. Yêu Lệ Lan làm cho tâm hồn ông trẻ lại, thăng hoa; ông được sống với một mối tình thơ nhạc vô cùng lý tưởng như ông viết trong Hồi ký tập 3, tr. 247: “… cuối tuần lái xe đi đón người tình rồi chúng tôi ngồi trong xe hơi hay trên một bãi cỏ hoang ở vùng ngoại ô, nói với nhau những chuyện cao xa, thơ mộng”. Ông ghi lại sự trong sáng, hạnh phúc êm đềm đó trong bài Ngày đó chúng mình:
Ngày đó có em đi nhẹ vào đời
Và mang theo trăng sao đến với lời thơ nuối
Ngày đó có anh mơ lại mộng ngời
Và xe tơ kết tóc – giam em vào lòng thôi
Ngày đôi ta ca vui tiếng hát với đường dài
Ngâm khẽ tiếng thơ, khơi mạch sầu lơi
Ngày đôi môi đôi môi đã quyết trói đời người
Ôi những cánh tay đan vòng tình ái
Ngày đó có ta mơ được trọn đời
Tình vươn vai lên khơi – tới chín trời mây khói
Ngày đó có say duyên vượt biển ngoài
Trùng dương ơi! Giữ kín cho lâu đài tình đôi […]
Được Phạm Duy yêu, được trân quý, Lệ Lan vô cùng hạnh phúc. Lệ Lan là nguồn cảm hứng cho âm nhạc Phạm Duy. Ngược lại, tình yêu của Phạm Duy cũng là nguồn cảm hứng cho thơ Lệ Lan. Lệ Lan năn nỉ cuộc đời đừng có “lay” động cô, đừng làm gián đoạn giấc mơ hạnh phúc tuyệt vời mà cô đang trải qua:
Tôi đang mơ giấc mộng dài
Đừng lay tôi nhé cuộc đời chung quanh
Tôi đang nhìn thấy màu xanh
Ở trên cây cỏ rất lành rất thơm
Tôi đang nhìn thấy màu hồng
Của tôi thay đổi luôn luôn theo trời
Hoàng hôn màu đỏ mây tươi
Bình minh nắng trắng ấm trôi vào lòng
Những vì sao tím rất trong
Mảnh trăng vàng rỡ chờ mong tôi nhìn
Tôi đang nhìn thấy trong tim
Tình yêu bay những con chim tuyệt vời
Đừng lay tôi nhé cuộc đời
Tôi còn trẻ lắm cho tôi mơ mòng.
Nhận được bài Năn nỉ, Phạm Duy phổ nhạc ngay, lấy câu thơ mở đầu làm tựa đề ca khúc Tôi đang mơ giấc mộng dài. Lời thơ rất đẹp, Phạm Duy chỉ sửa và thêm bớt một vài từ, âm nhạc dạt dào, thanh thoát, mê ly. Thật là một bài ca hạnh phúc! Đây là ca khúc phổ thơ Lệ Lan được nhạc sĩ Phạm Duy ưng ý nhất.
[…]
Tôi đang mơ giấc mộng dài
Đừng lay tôi nhé, cuộc đời chung quanh
Tôi đang nhìn thấy màu xanh ở trên cây cành trôi xuống thân mình
Tôi đang nhìn thấy màu hồng ở khắp nẻo đường nhẹ thấm vào hồn
Từ bình minh tươi mát, về hoàng hôn thơm ngát
Làn gió đưa hương đời vào chứa chan lòng tôi
Tôi nghe từ cõi đời vui vượt qua đêm dài lên tới sao trời
Tôi nghe từ cõi lòng người lời nói bồi hồi tìm kiếm ngọt bùi
Và nhìn thấy trong tim, tình yêu nở những con chim
Nở những con chim tuyệt vời
Đừng lay tôi nhé cuộc đời
Tôi còn trẻ dại cho tôi mơ mòng.
Bài thơ của Lệ Lan rất dễ thương, thơ ngây, hồn nhiên. Được Phạm Duy phổ nhạc, biến nó thành một tác phẩm hay, thoang thoảng một chút triết lý của một chuyện tình đẹp. Một cô bé mới tập tễnh làm thơ bỗng dưng trở thành một tác giả đứng ngang hàng với một nhạc sĩ hàng đầu trong xã hội lúc đó, Lệ Lan không khỏi mê mẩn tinh thần. Lệ Lan mê nhạc Phạm Duy, mê chuyện tình giữa bà mẹ và người nhạc sĩ tài hoa và mê Phạm Duy là người đã thực sự tung Lệ Lan bay bổng lên giữa “chín trời mây khói”. Với một tâm hồn lãng mạn, yêu thơ và được yêu như thế, Lệ Lan có thể hy sinh tất cả, bất chấp tuổi tác, bất chấp chuyện san sẻ tình cảm của mẹ để lấy cuộc tình này. Và mối tình thơ nhạc ấy tiếp tục như thế nào và có bao nhiêu tác phẩm âm nhạc nữa ra đời?
Người yêu nhạc Phạm Duy chắc hản không xa lạ với một bản tình ca nhẹ nhàng lãng mạn viết cho những người yêu nhau ‘không còn trẻ’. Thế nhưng ít ai biết nhạc phẩm này Phạm Duy lấy cảm hứng từ bài thơ ‘Nếu anh còn trẻ’ mà thi sỹ Hoàng Cầm viết năm 1941 khi mới 17 tuổi. Nhạc sỹ Phạm Duy có một tình bạn thân thiết với thi sỹ Hoàng Cầm khi cả hai tham gia kháng chiến chống Pháp vào khoảng năm 1947. Mãi 40 năm sau, độ năm 1984-1985 ở lứa tuổi ‘không còn trẻ’, nhà nhạc sỹ của chúng ta mới cho ra đời bản ‘Tình cầm’ mà [dongnhacxua.com] hân hạnh giới thiệu hôm nay.
Nếu anh còn trẻ như năm ấy Quyết đón em về sống với anh Những khoảng chiều buồn phơ phất lại Anh đàn em hát níu xuân xanh
Nhưng thuyền em buộc sai duyên phận Anh lụy đời quên bến khói sương Năm tháng… năm cung mờ cách biệt Bao giờ em hết nợ Tầm Dương?
Nếu có ngày mai anh trở gót Quay về lãng đãng bến sông xa Thì em còn đấy hay đâu mất? Cuối xóm buồn teo một tiếng gà…”
(Nếu Anh Còn Trẻ/thơ Hoàng Cầm)
Trên đời này có biết bao nhiêu người gặp nhau, hay gặp lại nhau, yêu nhau muộn màng lúc đã… già? Muộn màng!
Bài thơ lãng mạn do thi sĩ Hoàng Cầm viết năm 1941, diễn tả nỗi buồn vì một cuộc tình dở dang của người không còn… trẻ nữa.
Có nhiều chữ, nhiều câu thật tuyệt vờị Lấy vài thí dụ giản dị trong bài, để xem tài làm thơ của Hoàng Cầm.
Mở đầu bài thơ, chữ “Nếu” cho thấy đây một chuyện mong ước, giả dụ. Đọc tiếp cho hết câu đầu, “anh còn trẻ như năm ấy”, sẽ thấy rõ đó chỉ là một chuyện không thể có thực.
Nhưng, chữ “Quyết” ở đầu câu thứ hai cho thấy dù chỉ là chuyện giả tưởng, ý tưởng người đàn ông vẫn mạnh mẽ, khi có ý “đón em về sống”.
Có một chữ hơi lạ là “khoảng” của câu thứ ba. Thường người ta sẽ viết là “buổi”. Nhưng đọc “khoảng chiều” nghe thấm thía hơn là “buổi chiều”. Cái cảm giác khi đọc “khoảng chiều” sẽ là những lúc hoàng hôn về, không được trọn vẹn được thành cả buổi chiều, mà chỉ có những khoảng thời gian của những buổi chiều mà thôi. Kết quả làm cả câu thơ buồn hơn, hay hơn.
Chữ “níu” ở trong “níu xuân xanh” phải nói là rất hay, cho thấy tình trạng gần như là tuyệt vọng của mối tình… già, dù đây vẫn chỉ là nói chuyện giả tưởng. Mặc dù chuyện đón người yêu về chỉ là chuyện không có thực, mà tình yêu đã mong manh như vậy rồi!
Đoạn cuối của bài thơ, câu đầu cũng bắt đầu bằng “Nếu”, do đó cũng chỉ là chuyện giả dụ. Tuy vậy, khi đọc tiếp có “ngày mai anh trở gót” thì thấy câu chuyện lại có thể xẩy ra trong tương lai và không phải là chuyện không thật như ở đoạn đầu bài thơ.
Nhưng, lúc đó người “lãng đãng” có thể hiểu là người đàn ông đã mất hồn vì mất… tình đi lang thang khắp nơi, rồi tìm về “bến sông xa” vắng với cái buồn cô đơn.
Câu áp chót của bài thơ là một câu hỏi, “em còn đấy hay đâu mất?”. Và, chữ “Thì” đặt khéo léo ở đầu câu làm cả câu mạnh hẳn lên với ý nghĩa thậm xưng hơn nhiều. Câu thơ, câu hỏi nhưng có vẻ đã biết câu trả lời rồi, gần như thành một nỗi niềm trách móc, ai oán.
Câu cuối cùng của bài thơ, thật hay, đã làm bật ra được cái cảm giác buồn cô độc của thi sĩ. Hai chữ “buồn teo” là buồn hoang vắng. “Cuối xóm buồn teo một tiếng gà” nhấn mạnh đến sự vắng vẻ và buồn. Hoàng Cầm viết “một tiếng gà”, một tiếng động chứ không phải tiếng gáy của gà. Chỉ có một tiếng động nhỏ của một con gà, không có tiếng thứ haị Thi sĩ Hoàng Cầm không viết là một đàn gà, không viết là hai con gà. Đọc câu thơ sẽ có cảm giác chỉ có một con gà mà thôị Tiếng động nhỏ của một con gà từ cuối xóm còn vọng lên nghe thấy được cho thấy xóm buồn vắng vẻ như thế nào!
Mãi đến năm 1985, tức là 44 năm sau, nhạc sĩ Phạm Duy mới phổ nhạc bài thơ. Chắc lúc đó, tuổi đã về chiều, Phạm Duy mới cảm được bài thơ? Ông cho biết bài thơ không có tựa đề và đặt tên bài hát là Tình Cầm. Thật ra, bài thơ có tên Nếu Anh Còn Trẻ (99 Tình Khúc – Thơ Hoàng Cầm, trang 175). Có lẽ, đề tựa bài thơ chỉ được đặt về sau này và Phạm Duy đã không hề biết đến.
Bài thơ tình Nếu Anh Còn Trẻ đã trở thành bài nhạc Tình Cầm.
Sau khi được phổ nhạc, âm giai chính là Sol Trưởng, lời bài hát trở thành như sau:
Nếu anh còn trẻ như năm cũ… Quyết đón em về sống với anh! Những khi chiều vàng phơ phất đến… Anh đàn em hát níu xuân xanh…”
Bốn câu khá hay trong đoạn thứ hai của bài hát, không có trong bài thơ, do chính Phạm Duy “liều lĩnh phang” (chữ của Phạm Duy dùng khi viết về bài hát này) thêm vào:
Có mây bàng bạc gây thương nhớ Có ánh trăng vàng soi giấc mơ… Có anh ngồi lại so phím cũ Mong chờ em hát khúc xuân xưa!!!
Đoạn thứ ba, điệp khúc, lời khác hẳn bài thơ và nhạc chuyển trùng hẳn xuống, buồn hơn vì đổi qua âm giai Sol Thứ:
Nhưng thuyền em buộc trên sông hận… Anh chẳng quay về với trúc tơ! Ngày tháng tỳ bà vương ánh nguyệt Mộng héo bên song vẫn đợi chờ!
Đoạn kết, nhạc trở về với Sol Trưởng, lại rộng rãi hơn nhưng có lời hát với ý tưởng khác đoạn thơ nguyên thủy:
Nếu có ngày nào em quay gót Lui về thăm lại bến thu xa Thì đôi mái tóc không còn xanh nữẳ Mây bạc trăng vàng vẫn thướt tha”
(Tình Cầm/thơ Hoàng Cầm, nhạc Phạm Duy)
Có nhạc điệu uyển chuyển, thật hay, bài tình ca Tình Cầm là một trong những bài nhạc được gọi là Hoàng Cầm Ca của Phạm Duy.
Đó là chuyện bài thơ nhạc Nếu Anh Còn Trẻ-Tình Cầm.
Để kết thúc, lại nói thêm một chút chuyện già trẻ ở ngoài đờị Thế nào là già? Như thế nào là trẻ? Vấn đề này chỉ tương đối thôi và tùy theo cảm quan của con người mà thôi.
Thật ra có nhiều người nhiều người trông qua có vẻ trẻ nhưng tình cảm, bên trong lại không trẻ chút nào hết và có những người khác, bên ngoài nhìn thấy là già, mà tâm hồn vẫn trẻ trung.
Những “người thơ” có đầu óc, được tâm hồn như Hoàng Cầm hay Phạm Duy, có thể nói không có tuổi và vẫn trẻ mãi mãi…
Phạm Anh Dũng
Santa Maria, California USA
CHÚ THÍCH:
Tầm Dương và tỳ bà.
Tỳ bà tuy là nhạc cụ cổ truyền của VN nhưng có nguồn gốc từ đàn pipa của Trung Hoa.
Tầm Dương là tên một con sông bên Trung Hoa.
Câu thơ của Hoàng Cầm có chữ “Tầm Dương” và do đó câu của Phạm Duy có chữ “tỳ bà” là do câu chuyện sau:
Tầm Dương là một con sông thuộc tỉnh Giang Tây, Trung Quốc chảy qua huyện Cửu Giang.
Vào đời Đường, nhà thơ Bạch Cư Dị đang làm quan ở kinh đô, bị giáng chức về làm Tư Mã quận Cửu Giang (tức quận Giang Châu).
Ở đây, trong một lần tiễn bạn ở bến sông Tầm Dương, nhà thơ gặp một cô gái giang hồ trên sông, cô gái vốn là một tay đánh đàn tỳ bà nổi tiếng ở kinh đô Tràng An lưu lạc về.
Nghe đàn tỳ bà, lại nghe cô gái kể lể về cảnh ngộ rũi ro, nhà thơ cảm khái làm bài “Tỳ Bà Hành” nổi tiếng được truyền tụng đến ngày nay và đã được Phan Huy ích dịch ra tiếng Việt.
Trong Chinh Phụ Ngâm (nguyên tác Hán Văn của Đặng Trần Côn dịch sang tiếng Việt do Phan Huy Ích hay Đoàn Thị Điểm, đến nay vẫn không biết chắc chắn là người nào) có câu: Bến Tầm Dương chàng còn ngoảnh lại. Chốn Tiêu Tương thiếp hãy trông theo…
Bài thơ Tỳ Bà Hành của Phan Huy Ích dịch thơ Bạch Cư Dị cũng được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc thành một bài nhạc (khác).
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Nếu Anh Còn Trẻ (Tập thơ 99 Tình Khúc-Hoàng Cầm, trang 175-Văn Học xuất bản năm 1996 tại Việt Nam)
2. Tình Cầm (Tập nhạc Thấm Thoát Mười Năm-Phạm Duy, trang 75-Hội Văn Hóa Việt Nam tại Bắc Mỹ, Tủ Sách Cành Nam và Tạp Chí Xác Định xuất bản năm 1985 tại Hoa Kỳ)
3. Về Những Bài Gọi Là Hoàng Cầm Ca (bài Phạm Duy viết trong Tập San Hợp Lưu số 8 tháng Chạp, 1992 và tháng Giêng, 1993
Trong dòng thi ca Việt Nam, có lẽ bài thơ “Màu tím hoa sim” của Hữu Loan là bài thơ được phổ nhạc nhiều nhất. Theo ý kiến cá nhân của chúng tôi, thành công nhất và cũng giữ được tính bi tráng của bài thơ nhiều nhất là bản “Áo anh sút chỉ đường tà” của nhạc sỹ Phạm Duy.
Màu tím hoa sim – một kiệt tác của nhà thơ Hữu Loan đã làm lay động biết bao tâm hồn. Được Phạm Duy phổ nhạc, bài thơ mang tên mới Áo anh sứt chỉ đường tà, và trở thành một trong những ca khúc bi hùng nhất về người lính.
Nhà thơ Hữu Loan (trái) và nhạc sĩ Phạm Duy – Ảnh: nhân vật cung cấp
Nhạc sĩ Phạm Duy lúc vui vẫn kể rằng, sinh thời bố ông – nhà văn Phạm Duy Tốn thường viết truyện cười châm biếm các thi sĩ nửa mùa. Cũng vì có người bố như vậy mà “đời tôi, có những khi nổi hứng định làm thi sĩ thì tôi vội vàng bỏ ý định đó ngay. Chỉ sợ ông bố đội mồ sống dậy đưa mình vào truyện tiếu lâm!”. Phạm Duy chia sẻ, học tập bố mình, ông cũng có thể gọi là khắt khe trong việc nhận thức cái hay cái đẹp, đặc biệt là đối với thơ ca.
Bởi vì cái sự không dễ dãi ấy nên nếu có lần rung động, thì đó chắc chắn phải là sự rung động tuyệt đối. Mỗi bài thơ Phạm Duy tâm đắc, ông đều muốn phổ thành nhạc. Trong số những đóng góp to lớn cho nền âm nhạc dân tộc, có khoảng hơn 300 tác phẩm được ông phổ từ thơ. Nói nhạc khúc nâng cao lời thơ ý thơ để diễn tả tài năng thiên phú của Phạm Duy quả thật chẳng ngoa. Một số ca khúc phổ thơ rất thành công của ông như: Ngậm ngùi, Tiếng sáo thiên thai, Áo anh sứt chỉ đường tà, Đưa em tìm động hoa vàng, Em lễ chùa này, Bên kia sông Đuống, Còn chút gì để nhớ… tự thân chúng vốn dĩ đã là những bài thơ nổi tiếng, nhưng khi đặt lên khuông nhạc của Phạm Duy thì càng thêm phần thăng hoa.
Phạm Duy yêu họ. Họ, Hoàng Cầm, Lưu Trọng Lư, Quang Dũng, Phạm Thiên Thư, Hữu Loan… lần lượt ghi dấu vào những cột mốc cuộc đời lẫn âm nhạc của Phạm Duy một cách hiển nhiên và gần gũi
Vậy, bên cạnh khả năng lĩnh hội và kỹ thuật điêu luyện, điều gì tạo ra sự giao thoa nghệ thuật ấy? Theo lời Phạm Duy, trừ những người đã khuất từ rất lâu: đại thi hào Nguyễn Du, Hàn Mặc Tử, Bích Khê…, giữa ông và hầu hết cha đẻ của các bài thơ ông phổ nhạc đều nảy sinh mối duyên nào đó, rồi trở thành tri kỷ. Có người gặp gỡ trong kháng chiến, có người qua sinh hoạt nghệ thuật mà quen biết, có người lại tìm nhau vì cảm mến lời thơ tiếng nhạc… Phạm Duy yêu họ. Họ, Hoàng Cầm, Lưu Trọng Lư, Quang Dũng, Phạm Thiên Thư, Hữu Loan… lần lượt ghi dấu vào những cột mốc cuộc đời lẫn âm nhạc của Phạm Duy một cách hiển nhiên và gần gũi.
Năm 2005, nhạc sĩ Phạm Duy trở về quê hương sau ba mươi năm xa cách…
Vào một ngày mưa gió năm 2006, nhân chuyến du lịch trên đường cái quan, Phạm Duy đi ngang qua tỉnh Thanh Hóa. Hỏi thăm mới biết, nhà thơ Hữu Loan còn sống tại làng nhỏ Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn. Ông liền đi xe ôm tìm đến. Trước mặt Phạm Duy, anh cán bộ trong ủy ban kháng chiến ngày ngày cưỡi ngựa đi công tác khắp nơi hôm nào giờ đã là cụ già tóc bạc. Hồi đó ở chiến khu, hai người vẫn hay hàn huyên chuyện văn chương non nước. Một nửa thế kỷ trôi đi, cả hai gặp lại nhau trong hoàn cảnh gần đất xa trời (lúc ấy Hữu Loan đã hơn 90 tuổi), chỉ kịp ôn lại dăm ba câu chuyện cũ rồi chia tay… Cảm xúc về buổi gặp gỡ cuối cùng với nhà thơ Màu tím hoa sim vẫn đọng mãi nơi tiềm thức người nhạc sĩ: “Lúc đó tôi thấy anh Hữu Loan đã hơn 90 tuổi mà hãy còn khỏe mạnh thì mừng lắm”.
Phạm Duy nhớ lại: “Cuối năm 1947, tôi từ Việt Bắc (Cao-Bắc-Lạng) xuống Khu 3 (Chợ Đại, Cống Thần) rồi có ý định đi theo Trần Văn Giàu vào Nam chiến đấu. Nhưng khi vào tới Thanh Hóa (Khu 4 – làng Quần Tín) thì tôi gặp tướng Nguyễn Sơn và ở lại đó, gia nhập Ban Văn nghệ của Trung đoàn 304. Tại đây tôi gặp Hữu Loan…
Đầu húi cua, tiếng nói lớn, và khi ngủ thì ngáy như sấm, vậy mà khi làm thơ thì toàn thơ buồn. Anh vừa góa vợ và có một bài thơ rất buồn thương là bài Màu tím hoa sim mà nhiều người đã phổ nhạc, trong đó có tôi (có hai người khác phổ nhạc nữa là: Dzũng Chinh với tên Những đồi hoa sim và Anh Bằng thì lấy tên là Chuyện hoa sim). Nhưng đến khi tôi phổ nhạc xong bài thơ thì chính quyền hồi đó (1948) cho rằng bài thơ tiêu cực quá, nên tôi không muốn phổ biến bài hát đó. Sau này, khi tôi vào Sài Gòn sinh sống, tới năm 1971 tôi mới chính thức tung ra bài hát. Khi đó, tôi đặt tên cho bài hát là Áo anh sứt chỉ đường tà.
Theo tôi, bài Áo anh sứt chỉ đường tà tuy có vẻ buồn thương, nhưng không bi lụy mà bi hùng! Tôi nghĩ, bổn phận của người nghệ sĩ trong thời chiến phải biến cái bi thành cái hùng. Bài thơ của anh Hữu Loan có cả hai yếu tố đó và trong bản nhạc người nghe cũng nghe được cả hai tiếng: tiếng hùng và tiếng bi. Tôi soạn thành một “ca khúc” dài tới 7 đoạn gồm khoảng 80 khuông.
Vì là một truyện ca dài, bài hát được chia ra 6 đoạn, nói tới chuyện một anh chiến binh từ mặt trận trở về, cưới xong người con gái anh yêu, rồi lại phải trở về quân ngũ. Ở chiến trường, nhiều khi nhớ vợ, lo lắng cho vợ. Ở quê nhà, bỗng không may người vợ trẻ bị chết đuối, anh không được gặp mặt vợ. Lòng anh rất buồn nhưng vẫn hăng hái theo đoàn chiến sĩ ra đi. Trên đường hành quân, qua những đồi sim, anh nghe thấy có tiếng văng vẳng ru: À ơi, Áo anh sứt chỉ đường tà, vợ anh chết sớm, mẹ già chưa khâu…”.
Trích Vang vọng một thời – Mùa hè, 2012 Hiếu Dũng – Ngân Vi
Tiếp nối dòng văn nghệ về thế giới ngầm của Sài Gòn ngày trước, [dongnhacxua.com] xin đăng lại một bài viết trên VietnamNet.vn để úy vị có nhiều thông tin hữu ích.
CHUYỆN GIANG HỒ SÀI GÒN ĐI VÀO NGHỆ THUẬT (Nguồn: VietnamNet.vn)
Thực ra, không phải bây giờ đất Sài Gòn, nay là TP.HCM, mới có nhiều tội phạm. Từ xa xưa, Sài Gòn được ví von là “Hòn ngọc viễn Đông” là lãnh địa làm ăn của giới tội phạm cả nước tập trung về đây.
Trước năm 1975, có thể xem là thời điểm “thịnh” nhất của tội phạm xã hội. Hồi ấy, người ta gọi chúng là “giang hồ”, “du đãng”…
Từ hảo hán thời loạn đến tội phạm
Thế giới giang hồ Sài Gòn, có thể tạm phân chia làm 3 giai đoạn lớn kéo dài gắn bó với những biến cố lịch sử của nước ta.
Thời Pháp thuộc, đã manh nha xuất hiện tầng lớp tội phạm cướp giật, quậy phá ở nhiều địa phương.
Sài Gòn lúc đó đang trong giai đoạn mới hình thành, là đô thị mới, kinh tế – thương mại phát triển mạnh mẽ vào bậc nhất ở Đông Dương.
Bởi vậy, Sài Gòn không chỉ là “đất lành” cho những người có ý chí làm ăn, tìm cơ hội thay đổi cuộc đời mà cũng là ‘đất sống” cho giới tội phạm quy tụ về “làm ăn”, giành giật lãnh địa, thanh toán nhau. Nhiều nhân vật du đãng có tiếng tăm được chính quyền thời bấy giờ trọng dụng, như Bảy Viễn…
Tuy nhiên, phát triển mạnh mẽ, có tổ chức tinh vi, chặt chẽ là giai đoạn từ những năm 60 đến năm 1975. Bằng những trận thư hùng đẫm máu, thế giới giang hồ Sài Gòn đã định hình thế “tứ trụ” do 4 băng nhóm nổi tiếng thống lĩnh, sử sách gọi nhóm “tự trụ” này bằng cái tên mỹ miều du nhập từ Hong kong “Tứ đại thiên vương” là Lê Đại (Đại Cathay) – Huỳnh Tỳ – Ngô Văn Cái – Nguyễn Kế Thế.
4 “đại vương” này chia nhau cai quản thế giới ngầm Sài Gòn một thời gian dài. Trong đó, băng của Đại Cathay dù sinh sau đẻ muộn nhưng nổi đình nổi đám nhất, đến mức như huyền thoại.
Tương truyền, Đại Cathay đã dám tung quả đấm như trời giáng vào bụng của Trung tá Nguyễn Cao Kỳ – sau này là trung tướng, phó tổng thống, thủ tướng Việt Nam cộng hòa trong vũ trường – chúng tôi sẽ nói rõ ở những phần sau.
Chế độ Việt Nam cộng hòa thời kỳ bấy giờ phải đối phó vô cùng vất vả. Có những lúc giữa quân cảnh và giới giang hồ phải bắt tay nhau để “chung sống”.
Vì bản tính ngông nghênh, Đại Cathay đã bị tiêu diệt. 3 “đại vương” còn lại vẫn tiếp tục hoạt động cho đến ngày giải phóng miền Nam. Chúng đã bị chính quyền Cách mạng trừng phạt, dẹp triệt để, đem lại bình yêu cho nhân dân TP.HCM.
Lịch sử giang hồ Sài Gòn ngoài “tứ đại thiên vương” còn nhiều nhân vật nổi tiếng khác như Bạch Hải Đường, Điềm Khắc Kim, Quý “tử hình” (anh ruột Lai anh và Lai em, 2 tên bị tử hình trong vụ án “Năm Cam và đồng bọn”), anh em võ sĩ Hồng Cương- Hồng Trực cai quản khu Cô Bắc – Cô Giang v.v…
Trương Văn Cam, tức Năm Cam đã có mặt trong thế giới giang hồ Sài Gòn vào những năm 1964 – 1965. Tuy nhiên, y chỉ là vô danh tiểu tốt, nương tựa vào ông anh rể là Bảy Si, lúc này đã có số má.
Lúc ấy không ai có thể biết trước rằng 30 năm sau Năm Cam sẽ trở thành ông trùm xã hội đen trên đất Sài Gòn.
Lúc ấy, Lâm chín ngón đã là tay chân thân tín của Đại Cathy, gặp Năm Cam không thèm ngó bằng nửa con mắt.
Có lẽ Năm Cam cũng không thể nghĩ có ngày hắn lại ngồi “chiếu trên” với bậc đàn anh cao vời vợi như Lâm chín ngón.
“Thành tích” lớn nhất của kẻ vô danh Năm Cam lúc bấy giờ là cứu Huỳnh Tỳ chạy thoát trong một cuộc đấu súng với lính dù…
Sau ngày giải phóng miền Nam, những chiến dịch của lực lượng Công an TP.HCM từ năm 1975 đến những năm 1980 đã xóa sổ cơ bản các thủ lĩnh khét tiếng và làm tan rã nhiều băng nhóm giang hồ còn sót lại. Những kẻ cầm đầu đều bị pháp luật trừng trị.
Tuy nhiên, như những loài cỏ độc, trên mảnh đất Sài Gòn – TP.HCM luôn phải đối phó với nạn lưu manh, cướp giật lúc rộ lên, lúc lắng xuống.
Những băng nhóm quy mộ như thời trước 1975 không còn đất sống thì xuất hiện nhiều băng nhóm nhỏ lẻ luôn là thách thức với lực lượng công an TP.
Vụ Năm Cam là bài học không thể quên vì sự sơ hở, mất cảnh giác đã để sống dậy tổ chức tội phạm quy mô, mang đậm chất tội phạm mafia, không còn phảng phất chất “du đãng”, “giang hồ” như trước kia.
Giang hồ đi vào …nghệ thuật
Ông trùm mafia Ý ở đảo Sicin trở thành bất hủ khi thành nhân vật chính trong tác phẩm Bố già (The Godfather) nổi tiếng của nhà văn Mỹ gốc Ý tên Mario Puzo.
Tác phẩm sau đó được dựng thành phim cũng nổi tiếng không kém. Nhân vật chính Don Vito Corleone trong phim là hiện thân của ông trùm tên Don Vito Cascio Ferr di cư từ Ý qua Mỹ những năm đầu thế kỷ 20, đã gây dựng nên tổ chức maphia đầu tiên trên xứ cờ hoa.
Ở Việt Nam, nhà văn Nguyên Hồng đã lấy nguyên mẫu một tội phạm ngoài đời đi vào tác phẩm “Bỉ vỏ”. Đây là tác phẩm văn học đầu tiên ở nước ta viết về thế giới giang hồ ở đất Hải Phòng.
Thế nhưng, tội phạm trong thế giới giang hồ thông qua thế giới nghệ thuật, ảnh hưởng mạnh mẽ đến tầng lớp trẻ là hiện tượng có một không hai lại xảy ra ở Sài Gòn trước năm 1975.
Đó là băng giang hồ của Đại Cathay cũng các quân sư và người tình đều trở thành những nhân vật nổi tiếng trong các tác phẩm nổi tiếng ở miền Nam thời bấy giờ.
Tác phẩm “Điệu ru nước mắt” của nhà văn Duyên Anh lấy nguyên mẫu trùm Đại Cathay làm nhân vật chính, được thi vị hóa thành kẻ giang hồ hào hoa, lãng tử.
Tương truyền, trong quá trình cuốn “Điệu ru nước mắt” được viết, Đại Cathay đã cung cấp thuốc phiện và khách sạn yên tĩnh cho nhà văn.
Tuy nhiên, sách ra đời, dù bán rất chạy nhưng Đại Cathay không hài lòng vì vài tình tiết không được như ý, nhà văn Duyên Anh phải trốn lên Đà Lạt sống một thời gian.
Đại Cathay ngoài đời tuy không được ăn học nhưng có đội ngũ quân sư là những trí thức, nghệ sĩ có tên tuổi giúp và băng nhóm của y bớt vẻ cục súc, độc ác như băng ba tàu Huỳnh Tỳ, Hoàng Cái Thế… Quân sư Hoàng là một nhạc sĩ ghi-ta cũng là nhân vật chính trong tiểu thuyết “Vết thù trên lưng ngựa hoang”.
Tác phẩm này nổi tiếng đến mức được dựng thành phim. Nhạc sĩ tài ba Phạm Duy đã phổ nhạc bài hát cùng tên cho bộ phim này.
Lệ Hải, người tình của Đại Cathay là nhân vật xuất thân từ nhà giàu, theo tiếng gọi giang hồ đã chọn thế giới này làm lẽ sống. Cuộc tình ngắn ngủi giữa Đại Cathay và Lệ Hải được giới giang hồ đồn đại đẹp như bài thơ tình lãng mạn.
Sau đó, người đẹp Lệ Hải qua tay bao nhiêu đấng mày râu khác, có kẻ là trí thức giang hồ, có kẻ là anh hùng hảo hán và có cả …nhà thơ!
Bài hát “Loài yêu nữ mang tên em” do ca sĩ Elvis Phương trình diễn nổi tiếng một thời xuất thân từ bài thơ của nhà thơ Văn Mạc Thảo: “Ta gọi tên em là yêu nữ – Là loài yêu mị gái hồ ly” được nhạc sĩ Ngọc Chánh phổ nhạc.
Nữ văn sĩ nổi tiếng ăn khách Lệ Hằng cũng vào cuộc, từ nhân vật Lệ Hải đã viết nên tiểu thuyết “Bản tăng gô cuối cùng” xuất bản nhiều lần trước năm 1975!
Ngoài những người trong băng Đại Cathy lên sách, tiểu thuyết, thơ và phim thì các nhân vật khác như Điềm Khắc Kim, Bạch Hải Đường là những nhân vật trong các vở cải lương cùng tên. Nhiều nghệ sĩ nổi tiếng như Hùng Cường, Minh Vương đã vào vai tướng cướp Bạch Hải Đường.
Tuy nhiên, cần nói thêm, nhân vật tướng cướp Bạch Hải Đường trong vở cải lương và ngoài đời cách nhau rất xa!
Nhân dịp đầu xuân Giáp Ngọ 2014, [dongnhacxua.com] giới thiệu một bản nhạc nổi tiếng có liên quan đến “ngựa”: nhạc phẩm ‘Vết thù trên lưng ngựa hoang’, một sáng tác chung của nhạc sỹ Ngọc Chánh và Phạm Duy.
Trước hết, xin mời quý vị thưởng thức ‘Vết thù trên lưng ngựa hoang’ qua tiếng hát của Elvis Phương. Theo sự nhân định chủ quan của chúng tôi là chưa có ai hát bản này đạt như anh.
Để hiểu rõ hơn về bản nhạc này, chúng ta hãy quay về nửa cuối thập niên 1960, khi cuộc chiến Việt Nam ngày càng trở nên khốc liệt. Ngày ấy có một thành phần không nhỏ trong giới trẻ lớn lên theo cách tự phát, mất phương hướng và gần như đi bên lề của xã hội. Điều này đã được thể hiện rõ nét trong các tiểu thuyết về thế giới ngầm như ‘Loan mắt nhung’ của Nguyễn Thụy Long (viết năm 1967), ‘Điệu ru nước mắt’ của Duyên Anh (một bút hiệu của nhà văn Vũ Mộng Long, xuất bản năm 1965) hay ‘Vết thù hằn trên lưng con ngựa hoang’ (cũng của Duyên Anh, 1967).
‘Loan mắt nhung’ sau này được dựng thành phim rất ăn khách, trong đó bản nhạc nền ‘Loan mắt nhung’ do Huỳnh Anh sáng tác và Thái Châu ca cũng trở nên nổi tiếng. Trước đây [dongnhacxua.com] cũng đã có một bài viết giới thiệu ‘Loan mắt nhung’.
Còn trong ‘Điệu ru nước mắt’, Duyên Anh đã ‘thi vị hóa’ chuyện đời của đệ nhất giang hồ Sài Gòn – Đại ‘Cathay’ – để Đại trở nên phong trần hơn, lãng tử hơn. Có lẽ những ai theo dõi chuyện ‘bụi đời’ ngày trước sẽ không xa lạ với tứ đại giang hồ Đại-Tỳ- Cái -Thế: Đại ‘Cathay’, Huỳnh Tỳ, Ngô Văn Cái và Nguyễn Kế Thế. Trong đó, băng nhóm do Đại cầm đầu được cho là băng đảng có tổ chức tốt nhất. Để có được điều này, Đại đã khôn ngoan thâu nạp dưới trướng nhiều đàn em thuộc đủ mọi thành phần, có thực tài, biết dùng cái đầu chứ không phải chỉ biết đâm chém. Một trong số đó là Hoàng ‘guitar’, một tay giang hồ lãng tử với biệt tài chơi guitar.
Sau sự thành công vang dội của ‘Điệu ru nước mắt’, từ tiểu thuyết cho đến phim cho đến nhạc (bản ‘Bao giờ biết tương tư’ cũng của Ngọc Chánh & Phạm Duy), đạo diễn Lê Hoàng Hoa dựng tiếp ‘Vết thù hằn trên lưng con ngựa hoang’ năm 1971 với diễn viên Trần Quang vào vai chính Hoàng ‘guitar’.
Sau những năm lăn lộn giang hồ, Hoàng ‘guitar’ gác kiếm, mai danh ẩn tích. Thế nhưng để giải quyết một hoàn cảnh túng thiếu ngặt nghèo, Hoàng quay trở lại giới giang hồ và nhận lời làm một phi vụ. Số phận đầy oan nghiệt, Hoàng đã bị bắn gục bằng những vết đạn hằn trên lưng.
Góp phần vào thành công của bộ phim không thể không kể đến nhạc phẩm “Vết thù trên lưng ngựa hoang” do nhạc sỹ Ngọc Chánh và Phạm Duy cùng sáng tác.
‘Cô hái mơ’ là một bài thơ của thi sĩ Nguyễn Bính và được hai nhạc sỹ Phạm Duy và Hoàng Thanh Tâm phổ nhạc. Có một điều lý thú mà [dongnhacxua.com] muốn chia sẻ với người yêu nhạc: ‘Cô hái mơ’ là ‘đứa con tinh thần’ đầu tiên của cả nhà thơ lẫn hai nhà nhạc sỹ:
* Theo Wikipedia, bài thơ ‘Cô hái mơ’ là sáng tác đầu tiên được đăng trên báo của thi sĩ giang hồ Nguyễn Bính (1918 – 1966). Theo hiểu biết của chúng tôi thì có lẽ bài thơ được sáng tác vào những năm 1935 – 1940.
* Còn đối với ‘cây đại thụ’ Phạm Duy (1921 – 2013) thì bản nhạc phổ thơ này là ‘anh cả của một gia đình có gần 800 anh chị em’. Tâm sự của nhà nhạc sỹ khi quyết định về Việt Nam anh hưởng tuổi già: “Tôi đã phổ nhạc bài thơ này vào năm 1942. Đó là bản nhạc đầu tay của tôi cho nên tôi yêu nó lắm. Trong bài thơ phổ nhạc, có câu : Nhà ta ở dưới gốc cây dương, cách động Hương Sơn nửa dặm đường… cho nên 64 năm sau khi sáng tác bài hát, tôi phải mò về Chùa Hương để tìm cô hái mơ, khi tôi có cơ hội trở về Việt Nam vào năm 2003.” (Nguồn: PhamDuy2010.com)
* Cũng theo Wikipedia, Hoàng Thanh Tâm (1960) đã bắt đầu chập chững viết những note nhạc đầu tiên vào lúc 13 tuổi tại Sài Gòn, phổ nhạc thi phẩm “Cô Hái Mơ” và đã hoàn chỉnh nhạc phẩm này tại Canberra, Úc vào năm 1987, sau khi ra mắt album đầu tay “Tình Khúc Hoàng Thanh Tâm” với chủ đề “Lời Tình Buồn” tại Hoa Kỳ năm 1986.
‘CÔ HÁI MƠ’ DO PHẠM DUY PHỔ NHẠC
Cô hái mơ (Phạm Duy – Nguyễn Bính). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
‘CÔ HÁI MƠ’ DO HOÀNG THANH TÂM PHỔ NHẠC
NGUYỄN BÍNH, THI SỸ GIANG HỒ: CÔ HÁI MƠ (Nguồn: tác giả Trần Đình Thu đăng trên ThanhNien.com.vn )
Cô hái mơ là một trong những bài thơ nổi tiếng của Nguyễn Bính được Phạm Duy phổ nhạc rất sớm. Bài thơ có lẽ được sáng tác trong khoảng thời gian từ 1939 đến 1940. Ý kiến một số tác giả cho rằng đây là bài thơ đăng báo đầu tiên của Nguyễn Bính có thể là không chính xác. Bởi bài thơ này được đăng trong Tiểu thuyết thứ năm đến tận số 14, trong khi đó ngay từ số đầu tiên Nguyễn Bính đã có thơ đăng ở tờ báo này rồi.
Cô hái mơ lấy bối cảnh ở chùa Hương. Nguyễn Bính đã nhiều lần đi chùa Hương, vậy ông sáng tác bài thơ này vào lúc nào? Theo tác giả Ngọc Giao thì ông thai nghén bài thơ này trong lần đi thăm chùa Hương vào năm 1939 cùng với nhóm bạn văn nghệ thành phố Nam Định, trong đó có Ngọc Giao. Cả bọn thuê một chiếc thuyền lớn, khởi hành từ Phủ Lý vào Bến Đục. Trên thuyền, ngoài bạn văn nghệ ra còn có một đào hát ca trù và một kép đờn lớn tuổi. Thức nhắm thì mua hẳn một con dê sống để lên thuyền làm thịt. Ngoài rượu thịt ra, theo đề nghị của Nguyễn Bính, cả bọn còn mang theo bàn đèn để vui cùng nàng tiên nâu.
Đến chùa Hương, Nguyễn Bính tách hẳn mọi người ra, lội vào rừng mơ cho đến chiều tối mới về quán trọ. Ngọc Giao cho biết trong bữa cơm tối hôm ấy Nguyễn Bính uống rượu nhiều hơn, miệng luôn lẩm nhẩm và có lúc rút sổ tay ra ghi vội vài câu. Về sau mới biết ông bắt đầu thai nghén bài thơ Cô hái mơ. Điều khiến Ngọc Giao lấy làm lạ là Nguyễn Bính thường làm thơ rất dễ dàng, chưa bao giờ vò đầu bứt tai với một thi phẩm dù ngắn dù dài, thế nhưng với bài thơ này ông lại có vẻ vất vả lắm.
Vì sao lại như thế?
Ta hãy đọc lại bài thơ Cô hái mơ để xem có điều gì lạ ở trong đó không.
Thơ thẩn đường chiều một khách thơ Say nhìn xa rặng núi xanh lơ Khí trời lặng lẽ và trong trẻo Thấp thoáng rừng mơ cô hái mơ
Ấn tượng ban đầu là bốn câu thơ thật hay, thật trong trẻo. Thế nhưng ta cảm thấy có điều gì đó khang khác. Đọc kỹ một chút ta mới thấy rằng, dường như là nó kiểu cách quá. Những câu thơ này khác nhiều so với những câu tả cảnh mộc mạc chân chất mà ta quen nghe ở Nguyễn Bính như là “Hội làng mở giữa mùa thu/Giời cao gió cả giăng như ban ngày” hay là “Thu sang trên những cành bàng/Chỉ còn hai chiếc lá vàng mà thôi”… Ta thấy cái câu thơ Khí trời lặng lẽ và trong trẻo mới thật xa lạ với ông làm sao. Nó như là thơ của ai ấy. Câu thơ này mà đặt bên cạnh những câu thơ tả cảnh sau đây cũng của ông thì thật là một trời một vực:
Suốt giời không một điểm sao Suốt giời mực ở nơi nào loang ra Lửa đò chong cái giăng hoa Mõ sông đùng đục canh gà le te (Lửa đò)
Thật ra, Nguyễn Bính có khá nhiều bài thơ mà trong đó ông như muốn thoát khỏi giếng nước ao làng của mình như vậy rồi chứ không chỉ riêng trong Cô hái mơ. Chẳng thế mà Hoài Thanh đã từng nhận xét Nguyễn Bính có nhiều lúc không nhà quê chút nào. Hoài Thanh đã dẫn ra bốn câu thơ sau đây của Nguyễn Bính để chứng minh:
Đã thấy xuân về với gió đông Với trên màu má gái chưa chồng Bên hiên hàng xóm, cô hàng xóm Ngước mắt nhìn trời đôi mắt trong (Xuân về)
Nhà phê bình của chúng ta cảm thấy khó chịu về điều này và tiếc cho Nguyễn Bính. Ông viết tiếp trong Thi nhân Việt Nam: “Thế thì những câu trên này nên bỏ đi ư? Ai nỡ thế. Nhưng vì có những câu ấy mà người ta khó nhận thấy cái hay của những câu khác có tính cách ca dao” và “Đó là một điều đáng vì Nguyễn Bính phàn nàn. Đáng trách chăng là giữa những bài giống hệt ca dao người bỗng chen vào một đôi lời quá mới. Ta thấy khó chịu như khi vào một ngôi chùa có những ngọn đèn điện trên bàn thờ Phật”.
Nhà phê bình nói quá đúng nhưng may mà Cô hái mơ lại là một bài thơ hay. Hơn thế nữa nó là một bài thơ xuất sắc. Nhưng bài thơ này, nếu chẳng may thất lạc mà có người mới sưu tầm được, chắc không ai xếp vào thơ Nguyễn Bính mà sẽ xếp nhầm qua cho một tác giả khác.
Ta hãy đọc tiếp khổ thơ thứ hai và ba:
Hỡi cô con gái hái mơ già Cô chửa về ư? Đường thì xa Mà ánh chiều hôm dần một tắt Hay cô ở lại về cùng ta?
Nhà ta ở dưới gốc cây dương Cách động Hương Sơn nửa dặm đường Có suối nước trong tuôn róc rách Có hoa bên suối ngát đưa hương
Càng đọc càng thấy nét đẹp duyên dáng thướt tha của bài thơ nhưng đồng thời lại thấy xa dần một Nguyễn Bính chân quê. Cái hình ảnh “suối nước trong tuôn róc rách” và “hoa bên suối ngát đưa hương” là hai hình ảnh đã “hương đồng gió nội bay đi rất nhiều”. Vì sao lại như vậy?
Cho đến lúc này, có lẽ tất thảy chúng ta đều công nhận những lời thơ chân chất mộc mạc của Nguyễn Bính chính là những kết tinh của hồn dân tộc, xứng đáng được tôn vinh. Thế nhưng vào thời kỳ nó vừa xuất hiện, không phải ai cũng đồng ý với những đánh giá như vậy. Đây đó vẫn có nhiều ý kiến ngược lại. Chẳng hạn như tác giả Thượng Sĩ. Người này chê là Nguyễn Bính làm hò vè. Vì vậy có thể Nguyễn Bính bị một áp lực tâm lý, ảnh hưởng đến quan niệm sáng tác của mình, để mà từ đó ông cố gắng cách tân thơ mình chăng?
Tuy nhiên dù sao những bài thơ ấy cũng không hoàn toàn bị Tây hóa. Có lẽ Nguyễn Bính vẫn không muốn đi quá xa rặng tre làng dấu yêu của mình, hoặc là cái chất nhà quê đã thấm vào máu rồi nên ông không thể là một Xuân Diệu hoặc Huy Cận được. Vì vậy mà xen vào những câu thơ thật mới vẫn có những câu quê mùa. Chẳng hạn trong bài Cô hái mơ vẫn có những câu mộc mạc lẫn lộn vào đấy, dù ông cố vò đầu bứt tai để làm cho bằng được những câu thơ thật Tây:
Hỡi cô con gái hái mơ già Cô chửa về ư? Đường thì xa
Chửa về ư là lối nói người xứ quê của ông mà Nguyễn Bính vẫn quen dùng lâu nay.
Cô hái mơ là một thi phẩm rất thành công của Nguyễn Bính nhưng là một thi phẩm cách tân, chất dân dã quê mùa còn lại quá ít. Không biết ta nên đánh giá thế nào về điều này. Có nên phê bình mạnh mẽ như Hoài Thanh hay không? Đến đây ta nhớ lại lời kể của Ngọc Giao và mới hiểu vì sao Nguyễn Bính lại quá khó khăn khi sáng tác bài thơ này đến vậy.
Ngược dòng thời gian về với nhạc xưa, sẽ là thiếu sót nếu chúng ta không nhắc đến những giọng ca lẫy lừng đã để lại nhiều dấu ấn khó phai mờ. Hôm nay [dongnhacxua.com] xin đăng lại bài viết của nhà báo Nguyễn Minh viết trên Thể Thao & Văn Hóa về hai chị em Thái Hằng (tức người vợ hiền của nhạc sỹ Phạm Duy) và Thái Thanh (tức thân mẫu của danh ca Ý Lan).
NHỮNG TIẾNG HÁT MỘT THƯỞ: THÁI HẰNG LÀ CHỊ, EM LÀ THÁI THANH (Nguồn: Thể Thao & Văn Hóa)
Gần đây có thông tin nữ danh ca Thái Thanh mắc căn bệnh Alzheimer (một chứng mất trí phổ biến) và tình trạng sức khỏe đang ngày một yếu đi. Ở tuổi gần 80, dù đang chạy đua với quỹ thời gian mỗi lúc một cạn dần nhưng những ảnh hưởng từ giọng hát của bà còn rất lớn, Thái Thanh vẫn luôn được xem là một trong những diva hàng đầu của tân nhạc Việt Nam.
Hai nàng Kiều ở phố Neo
Thái Hằng, Thái Thanh là con gái của ông bà Phạm Đình Phụng. Thái Hằng (nghệ danh được nhà thơ Thế Lữ đặt) là con gái đầu lòng, tên thật là Phạm Thị Quang Thái. Còn Thái Thanh là con gái út trong nhà, tên thật là Phạm Băng Thanh. Việc anh chị em Thái Hằng đều trở thành những nghệ sĩ tên tuổi không phải là một điều lạ vì bởi song thân của họ là hai người rất sành nhạc cổ: thân phụ là một nghệ sĩ chơi đàn nguyệt có tiếng tăm, trong khi thân mẫu thì đánh đàn tranh, đàn tỳ bà, hát ả đào nổi tiếng ở đất Bắc. Bởi vậy dường như máu văn nghệ, mà cụ thể là máu âm nhạc hầu như đã có sẵn trong huyết quản của tất cả anh em Thái Hằng.
Năm 1949 gia đình ông bà Phạm Đình Phụng tản cư về khu chợ Neo (Thanh Hóa) lúc bấy giờ thuộc Liên khu IV. Tại đây, gia đình ông đã mở tiệm phở Thăng Long và chỗ này nhanh chóng trở thành chỗ tụ họp đông đảo của các văn nghệ sĩ đi theo kháng chiến thời đó, nhất là khi tiệm phở lại có bóng dáng mấy cô Kiều là hai chị em mà sau này sẽ nổi tiếng dưới hai tên hiệu Thái Hằng và Thái Thanh. Tại đây, nhạc sĩ Canh Thân làm những bài nhưCô hàng cà phê và nhạc sĩ Phạm Duy, lúc bấy giờ đang còn là một ca sĩ nổi tiếng, thường qua lại ve vãn cô chủ tiệm Thái Hằng, người có đôi mắt buồn muôn thuở.
Cũng từ đây ban Hợp ca Thăng Long ra đời với thành phần phần ban đầu gồm: Thái Hằng, Thái Thanh, Hoài Trung (tức Phạm Đình Viêm), Hoài Bắc (Phạm Đình Chương), sau đó có thêm Phạm Duy và Khánh Ngọc. Sau này, khi vào miền Nam, đây là ban hợp ca được xem là nổi tiếng nhất với trụ cột là tiếng hát Thái Hằng – Thái Thanh. Cần phải nói thêm rằng ở miền Nam trước đó, ngoài ban Hợp ca Thăng Long thì nổi nhất là tam ca Ngọc Lê Hà (Hoàng Lê và Khánh Ngọc là hai chị em ruột). Sau họ còn có thêm đôi song ca Tâm Vấn và Thịnh Thái. Nhưng dưới ánh đèn sân khấu, không ai sáng hơn Thái Hằng – Thái Thanh, những tiết mục của họ đều là những tiết mục ăn khách nhất, nhiều người đánh giá tiếng hát của hai chị em nhà họ Phạm là song phẩm, Thái Hằng kiều diễm, đoan trang còn Thái Thanh sắc sảo duyên dáng, chưa kể kỹ thuật thanh nhạc gần như là vô song và diễn ý tình bản nhạc trên sân khấu lại vô cùng quyến rũ.
Ban Hợp ca Thăng Long chuyên hát những ca khúc vui tươi: Ngựa phi đường xa (Lê Yên), Sáng rừng, Hò leo núi(Phạm Đình Chương)… với cách hòa thanh khi ấy như một làn gió tiên phong, mở đường cho phong cách hát nhiều bè, hát đuổi cho nhiều ban hợp ca sau này trên sân khấu ca nhạc. Hoài Bắc – Phạm Đình Chương còn là người viết nhiều ca khúc bất hủ: trường ca Hội trùng dương, Ly rượu mừng… Họ cũng là ban hợp ca trình bày ca khúc sử thi đồ sộ Hòn vọng phu của nhạc sĩ Lê Thương với lối trình bày rất lạ thời ấy: xen trên nền nhạc, giọng diễn ngâm của Thái Hằng, Thái Thanh đưa Chinh phụ ngâm khúc vào, biến trường ca bi tráng của Lê Thương trở nên gần với thể loại nhạc kịch. Hai chị em Thái Hằng – Thái Thanh còn được thính giả Đài phát thanh Sài Gòn rất hâm mộ khi ngâm thơ trong chương trình Tao Đàn do thi sĩ Đinh Hùng phụ trách cũng như những bản song ca mà giờ này nhiều người vẫn còn nhớ đến.
Tuy vậy đến đầu thập niên 1970 thì Thái Hằng và Phạm Duy tách khỏi Hợp ca Thăng Long và lúc này ban hợp ca cũng tan rã, các nghệ sĩ trong nhóm đi theo những hướng riêng trên con đường âm nhạc của mình.
Thái Hằng – Tiếng hát thùy dương
Giọng hát của Thái Hằng từng được một nhà văn miền Nam mô tả: “Dẻo mềm như nhánh thùy dương, dù có bị gió lay động nhưng nó không lả lơi đùa cợt cùng gió như loại nhược lan, lệ liễu, cỏ bồng cỏ bồ” và quan trọng hơn là “ánh sáng trong giọng hát của chị là ánh trăng mát mẻ dịu hiền chứ không phải là ánh sáng bình minh rực rỡ huy hoàng trong giọng hát Thái Thanh”.
Thái Hằng được nhớ rất nhiều qua những ca khúc như Gánh lúa, Bà mẹ quê, Tình hoài hương hay Về miền Trung, Tiếng hát Thiên Thai, Dòng sông xanh (lời Việt của Phạm Duy)… Giọng hát của bà được đánh giá đạt đến mức điêu luyện hiếm có, chưa ai vượt qua được.
Suốt nhiều thập niên trước năm 1975, Thái Hằng còn là giọng ngâm thơ được yêu mến trong các chương trình thơ văn và thoại kịch trên Đài phát thanh Sài Gòn. Cho đến nay giới thưởng ngoạn âm nhạc Việt Nam còn nhớ giọng ca của bà qua những bản Tiếng sáo thiên thai, Tình hoài hương, Tình ca… của Phạm Duy.
Ngoài vai trò một người mẹ của 8 người con, bà còn là người vợ mà nhạc sĩ Phạm Duy vô cùng kính trọng. Trong suốt nửa thế kỷ hôn nhân với Phạm Duy, dù vẫn biết ông là người đào hoa bậc nhất bà vẫn chưa bao giờ có một lời nói nặng nào. Nhạc sĩ Phạm Duy ca ngợi bà là vị thần hộ mệnh của mình, ông viết: “Bà là sự nâng đỡ của tôi trong phen sa ngã, là sự thanh bình của tôi trong nhiều sóng gió, là sự thành công của tôi trong cơn vật vã với đời, là nụ cười của nàng Mona Lisa kín đáo”…
Ca sĩ Thái Hằng không được nhắc đến nhiều bằng cô em Thái Thanh nhưng vẫn luôn nhận được sự kính trọng bằng giọng hát phi thường của mình. Sau năm 1975 bà vẫn đi hát nhưng chỉ là để giữ giọng phụ cho hai cô con gái là Thái Hiền và Thái Thảo hát chính. Và khi ca sĩ Duy Quang định cư hẳn ở Mỹ thì Thái Hằng hoàn toàn lui vào hậu trường và không bao giờ đi hát nữa.
Bà mất năm 1999 vì ung thư phổi. Thời gian đó, khi hay tin vợ mắc nan y, nhạc sĩ Phạm Duy đã bỏ tất cả mọi dự án âm nhạc để ở bên cạnh bà những ngày cuối đời. Ông nói rằng trong suốt cuộc hôn nhân này ông luôn chịu ơn bà và cho dù cuộc đời ông nhiều trắc trở nhưng tình nghĩa vợ chồng chưa bao giờ sóng gió, ông chưa bao giờ vắng nhà qua đêm và Thái Hằng chưa hề phải xa chồng, dù chỉ một ngày.
Thái Thanh – Tiếng hát trên trời
Nhà văn Thụy Khuê viết rằng: “Thái Thanh là một danh hiệu, nhưng như có ý nghĩa tiền định: bầu-trời-xanh-tiếng-hát. Hay tiếng hát xanh thắm màu trời. Tiếng hát long lanh đáy nước trong thơ Nguyễn Du, lơ lửng trời xanh ngắt trong vòm thu Yên Ðổ, tiếng hát sâu chót vót dưới đáy Tràng Giang Huy Cận, hay đẫm sương trăng, ngừng lưng trời trong không gian Xuân Diệu, tiếng hát cao như thông vút, buồn như liễu đến từ cõi thiên thai nào đó trong mộng tưởng Thế Lữ”. Quả thực trong gia đình họ Phạm, Thái Thanh là nữ danh ca có tiếng tăm và để lại nhiều ảnh hưởng nhất, bà được xem là diva số một của làng nhạc Sài Gòn thời ấy.
Tên tuổi Thái Thanh lẫy lừng trên khắp các chương trình ca nhạc truyền thanh cũng như truyền hình, từ hãng đĩa nổi tiếng cho đến các phòng trà tiếng tăm ở Sài Gòn. Nói về “ngôi vị” của Thái Thanh trong giới ca sĩ Sài Gòn trước 1975 có lẽ không ai chính xác bằng người trong giới, đặc biệt là một trong các danh ca hàng đầu thời ấy, Lệ Thu. Năm 1970, nhân chuyến tham dự khai mạc Hội chợ Osaka, Nhật Bản, Lệ Thu đã trả lời báo chí rằng: “Nếu chị Thái Thanh có mặt ở đây và hát, mọi người sẽ cúi đầu khâm phục”. Được xem là đắt giá nhất trong giới ca sĩ ngày đó, Lệ Thu chỉ chấp nhận “nghiêng đầu” trước Thái Thanh.
Những gì thuộc về Thái Thanh rất khó bị lặp lại bởi những ca khúc mà bà ngân lên, kể cả những bài đã từng có người hát trước đó, như thể bà khoác lên cho chúng một chiếc áo mới, một cuộc đời mới. Nhiều người vẫn không thể thích ai khác ngoài Thái Thanh qua những ca khúc như Chuyện tình buồn, Kỷ vật cho em, Ngày xưa Hoàng Thị, Đêm màu hồng, Ru ta ngậm ngùi hay những sáng tác của Phạm Đình Chương và đặc biệt, là những nhạc phẩm của Phạm Duy. Ngay từ những ngày đầu tiên cất tiếng hát (khoảng 13, 14 tuổi) trong vùng hậu phương của thời toàn dân kháng chiến chống Pháp, Thái Thanh cũng đã hát nhiều nhất là nhạc của Phạm Duy. Sau khi hồi cư về Hà Nội rồi di cư vào Sài Gòn (khoảng giữa năm 1950) cùng gia đình, Thái Thanh bắt đầu nổi tiếng như cồn khắp Trung – Nam – Bắc qua những sáng tác của người nhạc sĩ đa tài này.
Nhạc sĩ Phạm Duy cho rằng: “Nếu không có Thái Thanh thì nhạc Phạm Duy cũng không được hay và nổi lên được như vậy”. Ông nhận xét: “Thái Thanh là giọng ca duy nhất hát nổi hai cao độ chạy dài tới 2 bát âm trong nhạc của tôi. Không những thế, cô có giọng hát rất truyền cảm”. Cũng như Khánh Ly làm nổi bật tên tuổi Trịnh Công Sơn, Thái Thanh đã đóng góp rất nhiều trong việc đưa nhạc Phạm Duy lên ngôi vị cao nhất tại Sài Gòn trước đây.
Lập gia đình với tài tử điện ảnh Lê Quỳnh năm 1956 và cuộc hôn nhân này tồn tại trong 9 năm, trong khoảng thời gian ấy bà sinh được 5 người con. Sau khi sinh con, Thái Thanh vẫn tiếp tục ca hát và ngày càng trở thành một đệ nhất danh ca của nền tân nhạc Việt Nam. Bà giữ cho mình một nhịp độ hoạt động rất quy tắc, như một vận động viên điền kinh, bền bỉ và dai sức. Bà luôn có trách nhiệm và rất coi trọng nghề nghiệp. Chính vì lẽ đó mà suốt một thời gian bà không cho phép con mình đến với nghiệp hát vì bà sợ đi trên con đường này phải trả giá và kiên trung ghê gớm. Phải đến khi qua Mỹ bà mới cho phép ái nữ Ý Lan, khi đã gần 30 tuổi, được đi trên con đường âm nhạc giống mình.
Thái Thanh sang Mỹ năm 1985 và năm 1995 bà đi hát lại, ở tuổi 61. Tuy vậy, đến năm 2002 thì bà quyết định kết thúc sự nghiệp. Đây đó cũng vài lần Thái Thanh đi hát nhưng chỉ mang tính chất giao lưu còn thì bà gần như không còn hoạt động âm nhạc nữa. Trong suốt sự nghiệp của mình, Thái Thanh gần như là ca sĩ có số lượng đĩa hát đồ sộ (với rất nhiều hãng đĩa lớn nhỏ) và số ca khúc mà bà thể hiện cũng đã hơn 500 bài và trong đó rất nhiều bài vẫn còn được yêu mến. Những cuốn băng cối Thái Thanh luôn là gạch đầu dòng đầu tiên của những người mê sưu tầm đồ cổ.
Trong nền tân nhạc Việt Nam, có nhiều nhạc sỹ đặt trùng tên cho những ‘đứa con tinh thần’ của mình. Nổi tiếng nhất trong số đó phải kể đến bản ‘Tình ca’ của nhạc sỹ Hoàng Việt (1928-1967) (tức Lê Trực của ‘Tiếng còi trong sương đêm’) và bản ‘Tình ca’ của Phạm Duy (1921-2013). Có nhiều nét khác biệt nhưng cũng có nhiều điểm tương đồng xung quanh ‘Tình ca’ và hai nhà nhạc sỹ khả kính.
Phạm Duy sinh năm 1921 tại Hà Nội. Sau khi Pháp quay trở lại Đông Dương, ông tham gia kháng chiến. Năm 1951 ông bỏ về Hà Nội và di cư vào Sài Gòn. Hoàng Việt sinh năm 1928 tại Sài Gòn. Ông cũng tham gia kháng chiến. Năm 1954 tập kết ra Bắc. Vậy là sau hiệp định Geneva, người trong Nam thì sống ngoài Bắc mà người miền Bắc thì lại chọn miền Nam làm quê hương.
Chúng tôi không có tư liệu nào đáng tin cậy nhưng theo nhiều tài liệu thì ‘Tình ca’ của Phạm Duy ra đời năm 1953. Còn ‘Tình ca’ của Hoàng Việt viết năm 1957 trong một dịp cảm xúc dâng trào khi ông lần đầu tiên nhận được “lá thư miền Nam” từ người vợ hiền.
Ra đời trong cảnh binh đao khói lửa nên đâu đó trong cả hai bản ‘Tình ca’ chúng ta còn thấy thấp thoáng ‘hận thù’ hay ‘vận nước nổi trôi’ nhưng vượt lên trên tất cả là tình người, tình yêu đôi lứa và tình yêu quê hương sông núi. Mỗi nhạc sỹ một cách khác nhau đã khắc họa nét đẹp của lòng thủy chung và tính cách yêu chuộng hòa bình của dân tộc Việt Nam.
Một điểm thú vị khác là cả Hoàng Việt và Phạm Duy trong những năm tháng cuối đời đều muốn quay về và ra đi trên quê Mẹ, chỉ khác nhau đôi chút là Hoàng Việt mất còn khá trẻ vào năm 1967 khi hai miền còn chia cắt còn Phạm Duy ra đi năm 2013 khi quê hương không còn ‘chiến tranh đẫm máu’.
Tất cả rồi sẽ qua đi, chỉ có TÌNH YÊU là còn lại.
[dongnhacxua.com] qua bài viết này gởi lời tri ân và cầu chúc linh hồn của nhạc sỹ Phạm Duy và Hoàng Việt thật sự an nghỉ nơi không còn ‘đau khổ và chia ly’!
Tình ca (Phạm Duy). Ảnh: AmNhacMienNam.blogspot.com
Trong một bài viết về nhạc phẩm ‘Thà Như Giọt Mưa’ của Phạm Duy phổ thơ Nguyễn Tất Nhiên, [dongnhacxua.com] có đề cập đến một nguyên mẫu của ‘Duyên’ ngoài đời là cô Bùi Thị Duyên, cựu học sinh Ngô Quyền, Biên Hòa ngày xưa. Hôm nay chúng tôi lại có cái ‘duyên’ được thêm thông tin về năm tháng Nguyễn Tất Nhiên còn đi học và nhất là biết được ai là “Cô bắc kỳ nho nhỏ”, một sáng tác khác mà Phạm Duy cũng phổ thơ của Nguyễn Tất Nhiên.
Cô bắc kỳ nho nhỏ. Phạm Duy – Nguyễn Tất Nhiên. Ảnh: QuanNhacVang.com
MỘT CÁI NHÌN KHÁM PHÁ MỚI VỀ NGUYỄN TẤT NHIÊN (Nguồn: tác giả Người Xứ Bưởi đăng trên Ngo-Quyen.org)
Biên Hòa có gì ”đặc biệt” không … ?
Nhớ lại mùa hè cách nay đúng 36 năm, giới trẻ sinh viên học sinh VN có làm Đại Hội Thể Thao Âu Châu ngay tại thành phố Stuttgart / xứ Đức. Đêm về khuya, một nhóm nhỏ gốc Hướng Đạo có sáng kiến làm lửa trại “bỏ túi” để sinh hoạt làm quen với nhau. Tới màn tự giới thiệu, người viết vừa mới nói là dân Biên Hòa, thế là bị cắt lời ngay bằng lao nhao những lời “hỏi thăm“:
Học trường Ngô Quyền phải không ?
Bưởi Biên Hòa ngon lắm đó!
Nhà Thương Điên cũng “hết xẩy” luôn!
Một cô khá “mi nhon” liền tự nhiên đứng lên hát một đoạn bản nhạc Thà Như Giọt Mưa và sau đó “lên mặt” hỏi trỏng có quen biết Nguyễn Tất Nhiên không và “dung nhan” của Cô Bắc kỳ nho nhỏ tên Duyên ra sao? Lúc đó trước mặt bạn bè làm sao tôi dám “can đảm tiết lộ” đã học cùng khóa 8 với Nguyễn Tất Nhiên tại trường Ngô Quyền, học cùng thời bậc tiểu học với Duyên và nhứt là trước năm 1975, gia đình ba má tôi & ba má Duyên là láng giềng ở cách nhau một căn nhà trong một “xóm Bắc kỳ nho nhỏ” tại cuối đường dốc tòa án Lê Văn Duyệt (sau đổi là Bùi Văn Hòa). Tại trong bụng sợ mang tiếng “thấy sang bắt quàng làm họ” nên đành nín khe chịu thua luôn.
Câu chuyện tình cờ này cho thấy thơ Nguyễn Tất Nhiên được giới trẻ lúc đó biết rất nhiều và đôi khi đã biến thành biểu tượng đặc biệt cho tỉnh Biên Hòa & trường Ngô Quyền. Bởi nổi tiếng như vậy nên đã có nhiều huyền thoại không phù hợp sự thực được đưa ra. Trong văn học tại các quốc gia tiền tiến Tây Phương thì họ giải quyết rốt ráo không chấp nhận những chi tiết huyền thoại sai sự thực trong tiểu sử tác giả liên hệ. Cho nên hồi năm 2007, người viết có đề nghị trang web trường Ngô Quyền mở rộng & thêm mục Thư Quán Nguyễn Tất Nhiên để lưu trữ toàn bộ di sản văn học liên hệ và làm sáng tỏ những chi tiết không đúng sự thực có liên quan đến nhà thơ nổi tiếng này. Từ đó trang web trường Ngô Quyền có thêm mục Thư Quán Nguyễn Tất Nhiên và được phụ trách bởi nhà thơ Nguyễn Thị Minh Thủy (cũng là người bạn đời hôn phối duy nhứt của Nguyễn Tất Nhiên). Nhờ vậy, trong đó đã xuất phát những cải chính cấp thời bảo vệ hữu hiệu danh dự cho Nguyễn Tất Nhiên, khi nhà thơ Du Tư Lê vào năm 2010 đã viết báo nói xấu & mạo nhận là người nghĩ ra giùm bút hiệu cho Nguyễn Tất Nhiên.
Trong khuôn khổ giới hạn, bài viết ở đây bàn đến vài điểm trong Một cái nhìn khám phá mới về Nguyễn Tất Nhiên.
1) Ai mới chính đích thực là “Cô Bắc kỳ nho nhỏ” của Nguyễn Tất Nhiên?
Xứ bưởi Biên Hòa nổi tiếng là cái nôi thơ văn miền Nam. Được biết nhiều nhứt trong giới làm thơ tại đây từ trước đến nay chính là người học trò Nguyễn Tất Nhiên với “Cô Bắc kỳ nho nhỏ“:
Đôi mắt tròn, đen, như búp bế
Cô đã nhìn anh rất… Bắc kỳ
Anh vái trời cho cô dễ dạy
Để anh đừng uổng mớ tình si
…..
Anh chắc rằng cô sinh trong Nam
Cảnh tượng di cư chắc lạ lùng
Thuở còn học ở Ngô Quyền, đám học trò chúng tôi may mắn được nhiều Thầy Cô thiệt giỏi như Thầy Đoàn Viết Biên, Cô Đặng Thị Trí, Cô Vương Chân Phương, Cô Đinh Thị Hòa… “truyền nghề” cho môn Quốc Văn. Trong đó có phương pháp tổng hợp để tìm thấy những sự thực liên quan đến tác giả qua:
a) phân tích kỹ mọi dữ kiện chứa đựng trong các tác phẩm.
b) sưu tầm tin tức qua những cá nhân thân cận & quen biết với tác giả.
c) nghiên cứu về hoàn cảnh của tác giả, sẽ thấy tác phẩm ra đời với hậu ý gì?
Trong lãnh vực nghiên cứu văn học, đôi khi một vài dữ kiện tuy nhỏ nhoi trong tác phẩm lại dẫn đến khám phá sự thực bất ngờ. Điển hình là trong dự án chuyển dịch bộ Luật Hồng Đức (tên chính thức là Quốc Triều Hình Luật) của Đại học Harvard vào năm 1984 quy tụ nhiều học giả Việt Mỹ đã tình cờ khám phá ra tác giả đích thực soạn ra bộ luật nổi tiếng này chính là thiên tài Nguyễn Trãi (cũng là tác giả của Bình Ngô Đại Cáo). Trong đó, học giả Nguyễn Ngọc Huy đã có sáng kiến nghiên cứu kỹ vấn đề kỵ húy (kiêng kỵ tên húy của vua) để phát giác ra bản văn bộ Luật Hồng Đức chắc chắn được soạn trước thời vua Lê Thánh Tôn (Hồng Đức) lúc mà thiên tài Nguyễn Trãi còn sống chịu trách nhiệm điều hành.
Áp dụng vào trường hợp Nguyễn Tất Nhiên, chúng tôi đã phát hiện thấy là phần lớn các bài viết và dư luận đã… lầm và sai, khi cho rằng nhân vật “Cô Bắc kỳ nho nhỏ ” chính là cô bạn học cùng lớp tên Duyên (Bùi Thị Duyên). Bởi lẽ, họ không nắm vững những chi tiết liên hệ:
a) Nguyễn Hoàng Hải (tên thật của nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên) và Duyên học cùng lớp cùng sinh năm Nhâm Thìn 1952, mà cuộc di cư xảy vào năm 1954. Như vậy quá rõ ràng Nguyễn Tất Nhiên muốn ám chỉ vào một người con gái khác trẻ tuổi hơn nhiều (sinh sau năm di cư 1954!) và khi muốn bắt chuyện làm quen vào năm 1973 bèn đong đưa với câu “Anh chắc rằng cô sinh trong Nam. Cảnh tượng di cư chắc lạ lùng“. Điều này không gì lạ, vì thi sĩ vốn nòi đa tình, nên trong tác phẩm Nguyễn Tất Nhiên xuất hiện nhiều bóng hồng khác nữa chớ không phải chỉ có “một người mang tên Duyên“.
b) Trong bài phỏng vấn tuần báo Tuổi Ngọc số 141 vào ngày 5.8.1974, Nguyễn Tất Nhiên đã trả lời gián tiếp xác nhận chuyện này:
Tuổi Ngọc: Cuối cùng, Nguyễn Tất Nhiên, bạn còn muốn nói thêm gì chăng?
Nguyễn Tất Nhiên: Có lẽ, nên thôi. Bởi tôi sắp sửa đề cập tới nàng con gái khác, trong bài “Hai năm tình lận đận” . Nàng con gái khác nữa, trong bài “Cô Bắc kỳ nho nhỏ”.
c) Nguyễn Tất Nhiên đã tả điểm đặc biệt về Cô Bắc kỳ nho nhỏ như sau:
Cô Bắc kỳ nho nhỏ
tóc “demi-garcon”
cười ngây thơ hết nụ
…..
mắt như trời bao dung
Kiểu tóc “demi-garcon” đặc biệt này không thể tìm thấy ở hình ảnh thuở xưa ở các nhân vật nữ mà Nguyễn Tất Nhiên từng theo đuổi làm thơ gửi tặng như chs-NQ Bùi Thị Duyên (tóc xõa đến bờ vai), nhà thơ Nguyễn Thị Minh Thủy (tóc thắt bím)… (xem hình ảnh phía dưới)
Phân tích trên đã được đăng tải trên Tuyển Tập Ngô Quyền năm 2006 và lúc đó thực sự chúng tôi không biết rõ tên tuổi đích thực của Cô Bắc kỳ nho nhỏ, bởi lẽ chúng tôi tiếp tục qua Âu Châu du học từ năm 1971, nên không rõ nhiều về “diễn tiến” tại Biên Hòa.
Dĩ nhiên đã gợi trong lòng “tò mò” vô cùng khi thấy Nguyễn Tất Nhiên vào năm 1972 làm bài thơ Duyên Của Tình Ta Con Gái Bắc với những lời lẽ “nặng nề” chê gái Bắc “nhớ duyên dáng ngây thơ… mà xảo quyệt” . Rồi thật bất ngờ chỉ một năm sau 1973, Nguyễn Tất Nhiên lại gặp một nàng con gái bắc khác nhỏ tuổi hơn nhiều, để sáng tác được bài thơ độc đáo Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ . Vậy, nhân vật nữ “đặc biệt” này là ai đã có sức mạnh ghê gớm khiến Nguyễn Tất Nhiên chạy theo “mê tình” đến nổi gạt bỏ mọi thành kiến xấu “gái bắc” trước đó một năm.
Để giải đáp được ẩn số này, chúng tôi đành sưu tầm tin tức qua những cá nhân thân cận & quen biết với tác giả. Trong đó có nhà thơ Nguyễn Thị Minh Thủy, nhà thơ Tưởng Dung (bạn học thân thiết nhứt của Minh Thủy), Cô giáo Ma Thị Ngọc Huệ và một số bạn bè thân ở trong & ngoài nước. Rất ngạc nhiên là phần lớn họ đều biết rõ chuyện nội bộ này và xác nhận cho biết Cô Bắc kỳ nho nhỏ với tóc “demi-garcon” chính là một nữ sinh trường Ngô Quyền tên là Hoàng Thị Kim Oanh. Nên nhớ Nguyễn Tất Nhiên cũng từng sáng tác một bài thơ có tựa đề “Oanh“, mà nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc thành bài Hãy Yêu Chàng:
Oanh
Hãy yêu chàng, yêu chàng như yêu dòng sông
Ngậm ánh trăng non bàng bạc đêm rằm
…..
Chơi giỡn tung tăng hai vạt áo dài
Gió đưa mây về, trời mưa, bong bóng vỡ
Từ Biên Hòa, bạn bè lại cho biết rõ thêm chi tiết vềchs-NQ Hoàng Thị Kim Oanh, sinh năm 1955 (học khóa 12 trường Ngô Quyền / Biên Hòa, sống khép kín, hiền lành, ít giao tiếp và rất xinh), có người chị tên là Hoàng Thị Thúy Liễu (Ngô Quyền khóa 8) và người chị khác nổi tiếng hơn tên là Hoàng Thị Lý (Ngô Quyền khóa 5, còn được gọi là Chị Lý Ca Dao vì có quán cà phê Ca Dao tại Ngã Ba Vườn Mít và là nơi tụ tập giới học sinh NQ trong đó có cả Nguyễn Tất Nhiên). Hiện nay, họ vẫn còn cư ngụ ở địa chỉ cũ tại Biên Hòa. Kim Oanh nhỏ hơn Nguyễn Tất Nhiên đến 3 tuổi, chính vì thế thân mẫu của nhà thơ mới nhận xét là “còn nhỏ dại“. Sự thực này mới giải thích thỏa đáng toàn bộ bài thơ tâm sự sau đây của Nguyễn Tất Nhiên:
Chỗ tôi
tôi có chỉ cho gia đình
người tôi yêu
là một nàng con gái bắc
mẹ tôi hai lần nhìn
dáng em đi
và nói nó còn nhỏ dại
không hiểu nó thương mày chỗ nào
tôi trả lời chỗ con làm thi sĩ
tuy nhiên tôi vừa đau nhói trái tim
vì hiểu rằng
muôn đời
em vẫn ngó tôi nửa mắt
có gì đâu
thiên hạ lâu nay cứ nhạo báng tôi khùng!
Có lẽ đây là bài thơ “duy nhứt” của Nguyễn Tất Nhiên đã “lột trần” mặc cảm tâm lý: rất muốn “yêu” con gái Bắc dù trong lòng biết rõ chỉ “đơn phương” mà thôi và chỉ được họ “ngó nửa con mắt“. Kể cả Cô Bắc kỳ nho nhỏ mang tên Kim Oanh!.
2) Nguyễn Tất Nhiên có thực sự bị bịnh điên hay không ?
Một số dư luận cho rằng Nguyễn Tất Nhiên là một nhà thơ điên.
a) Về phía Nhạc sĩ Phạm Duy có cho biết:
“Đi qua đời tôi có khá nhiều thi nhân thuộc nhiều thế hệ, đa số đều như tôi, đều khá hồn nhiên, nghĩa là có tí máu điên. Nhưng trong làng thơ Việt Nam, có ba nhà thơ hồn nhiên nhất, đó là Nguyễn Ngu Ý, Bùi Giáng, và Nguyễn Tất Nhiên… cả ba vị đều đã từng là thượng khách của Dưỡng trí Viện Biên Hòa, nơi tôi đã có lần đến thăm một trong ba vị đó..”
b) Còn về phía Giáo sư Nguyễn văn Lục trong bài viết Hãy Để Thi Ca Và Âm Nhạc Cùng Cất Cánh Bay Lên đưa ra nhận xét :
“Số phận dành cho thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên cũng là số phận dành cho nhiều nhà thơ nổi tiếng khác. Hình như bệnh tật đi đôi với tài năng, ngay cả trường hợp đối với những người mất trí. Theo những thí nghiệm bệnh lý học, người bệnh trí nhìn vũ trụ như tan vỡ và bị tán vụn. Chính vì thân thể của họ không còn là một thân thể tri giác bình thường.”
Trên thực tế là Nguyễn Ngu Ý, Bùi Giáng có điều trị… thiệt ở nhà thương điên Biên Hòa. Lời thơ của Bùi Giáng quả là… không bình thường. Còn Nguyễn Tất Nhiên thì hoàn toàn khác: chưa bao giờ bị điều trị ở Dưỡng Trí Viện Biên Hòa. Nhiều người ở Biên Hòa (trong đó có nhà thơ Tưởng Dung được biết trực tiếp) hiểu rõ vì muốn được hoãn dịch, Nguyễn Tất Nhiên phải đóng kịch… giảđiên tại Trung Tâm 3 Quang Trung. Trong một truyện ngắn, Nguyễn Tất Nhiên tiết lộ về lý do hoãn dịch là sau đó có được giấy chứng nhận của bác sĩ về bịnh “tâm thần” để khỏi đi lính. Được biết, mánh lới hoãn dịch này đã được dùng tới khá nhiều trong thời kỳ chiến tranh khốc liệt lúc đó. Khách quan mà nói Nguyễn Tất Nhiên không bị bịnh điên, mà trái lại đã tỏ ra rất tỉnh táo & khôn ngoan dám hăm dọa kiện và lấy được tiền bồi thường trong vụ án tranh chấp bản quyền có liên quan đến nhạc sĩ Phạm Duy. Những người điên thật như Bùi Giáng, Nguyễn Ngu Ý… làm gì có cái khôn ngoan đó để kiện lấy được tiền bản quyền.
Chi tiết do Phạm Duy đưa ra hoàn toàn phóng đại, sai và có thể gây lầm lẫn tai hại lớn cho những nhận định văn học sau này về Nguyễn Tất Nhiên. Sự thực những dòng thơ tình học trò độc đáo của Nguyễn Tất Nhiên không “có tí máu điên ” nào cả và chính như vậy mới xứng đáng được ca ngợi & quý mến của biết bao nhiêu người hâm mộ.
Nhưng chắc chắn Nguyễn Tất Nhiên có máu “lập dị“, đôi khi cũng hơi… “tửng tửng” khác thường. Cho nên mới bị bạn bè chọc ghẹo với biệt hiệu là “ngáo” là “khùng“. Bởi vậy, ngay trong giờ Việt Văn của Cô Vương Chân Phương tại trường Ngô Quyền, Nguyễn Tất Nhiên mới 15 tuổi đã dám phê bình… chê thơ Nguyễn Du (tâm lý ngựa non háo đá!). Nhưng xét cho cùng, nếu phải làm loại thơ tình học trò chắc gì thi hào Nguyễn Du thắng nổi Nguyễn Tất Nhiên, bởi lẽ Nguyễn Tất Nhiên có đặc điểm nổi bật “viết dễ dàng giống như nói chuyện “.
3) Ai đã tạo ra 2 huyền thoại kể trên?
Thông thường huyền thoại được cố ý tạo dựng ra với chủ đích đằng sau. Xét kỹ ra cả hai huyền thoại kể trên được nhạc sĩ Phạm Duy chủ động qua những tiết lộ từ chính bản thân như sau:
“Saigon 1972. Ðây là lúc những khổ đau của Tết Mậu Thân chưa kịp phai mờ trong đời sống của mọi người thì xẩy ra những nhức nhối của mùa hè đỏ lửa… Tôi hết chạy trốn vào đạo ca thì lại nhào ra với chiến ca, hết hạ mình xuống với vỉa hè ca, tục ca thì lại vươn lên với nữ ca, bé ca, bình ca… Tôi thèm thuồng được soạn tình ca, nhưng phải là tình ca không rầu rĩ cơ… Thế rồi tôi gặp Nguyễn Tất Nhiên. Trong bầu không khí thơ ở miền Nam hơi nặng nề vào lúc đó, đầy rẫy những bài thơ chủ đề về chiến tranh, hòa bình… thì thơ của chàng thư sinh mới 17 tuổi này là thơ phi chính trị. Thơ rất hồn nhiên, rất ngộ nghĩnh, theo tôi, nếu đem phổ nhạc thì sẽ cũng sẽ rất hợp với giọng hát trẻ trung (Duy Quang) trong ban nhạc gia đình là ban THE DREAMERS mà tôi đang cần ”lăng xê ”. Sau khi tôi phổ bài Thà Như Giọt Mưa Rớt Trên Tượng Ðá, Nguyễn Tất Nhiên cung cấp cho tôi thêm nhiều bài thơ để tôi biến thành những ca khúc trẻ trung của thời đại như Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ, Em Hiền Như Ma Soeur, Anh Vái Trời hay là Anh Nam Kỳ Dễ Thương, Hãy Yêu Chàng, Hai Năm Tình Lận Ðận… Những tên bài hát phần nhiều do tôi đặt ra…”
Những chi tiết trên cho thấy nhạc sĩ Phạm Duy lúc đó rõ ràng đã bị kẹt đề tài sáng tác nên mới tìm kiếm đến thơ Nguyễn Tất Nhiên đang trên đà nổi tiếng qua 2 bài thơ được nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang đầu tiên phổ nhạc. Đó là bản Thiên Thu và bản Vì Tôi Là Linh Mục. Nhạc sĩ Phạm Duy “phù thủy” hơn nên đã cố tình sửa đổi thêm vào để quảng cáo thành công lớn về thương mại. Điển hình nhứt so sánh trong bài thơ Khúc Tình Buồn không hề có nhân vật nữ tên Duyên, nhưng trong bài hát phổ nhạc thì được Phạm Duy đặc biệt thêm vào. Nhứt là bi thảm hóa qua 2 câu hát cuối: “Khiến người trăm năm đau khổ ăn năn. Khiến người tên DUYÊN đau khổ muôn niên“.
Tương tự trong mục tiêu đó, Phạm Duy đã viết tung tin phóng đại cho rằng Nguyễn Tất Nhiên có nhiều máu điên nhất và cùng với Nguyễn Ngu Ý, Bùi Giáng điều trị tại Nhà Thương Điên Biên Hòa để tạo một huyền thoại bi thảm khác thường… mà sự thực chuyện đó không hề bao giờ có.
4) Ai đã khám phá ra tài năng và tạo cơ hội cho Nguyễn Tất Nhiên nổi tiếng?
Dư luận thường cho rằng chính Phạm Duy đã khám phá ra tài năng và chất thơ “rất hồn nhiên, rất ngộ nghĩnh” của Nguyễn Tất Nhiên rồi mới quyết định phổ nhạc. Nhưng trên thực tế, Nguyễn Tất Nhiên – qua lời thuật lại của nhà thơ Nguyễn Thị Minh Thủy – đã liệt kê thứ tự các bài thơ được phổ nhạc như sau:
– Thiên thu (Nguyễn Đức Quang)
– Vì tôi là linh mục (Nguyễn Đức Quang)
– Thà Như Giọt Mưa (Phạm Duy)
– Hãy yêu chàng (Phạm Duy)
– Em hiền như ma soeur (Phạm Duy)
– Hai năm tình lận đận (Phạm Duy)
– Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ (Phạm Duy)
Bài hát Thiên Thu được phổ biến trên internet có đề là năm 1970 phát hành tại Sài Gòn. Điều này cho thấy nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang đã khám phá thấy ngay tài năng làm thơ của Nguyễn Tất Nhiên qua tập thơ Thiên Tai (1970) và chọn bài thơ “Thiên Thu” nằm ở trang cuối cùng trong tập thơ đó để phổ nhạc. Nhà thơ Tưởng Dung trong bài viết “Sao thiên thu không là…” cũng có cùng nhận xét về bài thơ đó: “rất thích ngay lần đầu đọc thơ anh, bấy giờ sao mà thấm thía“. Kế đến, nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang phổ nhạc bài Vì Tôi Là Linh Mục, mà chính Nguyễn Tất Nhiên xem là bài thơ ưng ý nhứt. Chính những dòng thơ được phổ nhạc đầu tiên này đã dễ lan truyền trong giới hâm mộ thơ nhạc và khiến các nhạc sĩ nổi tiếng nhứt thời đó như Phạm Duy, Anh Bằng… phải tò mò chú ý và đến nổi “động lòng” đua nhau tiếp tay phổ nhạc các bài tình ca khác dễ “ăn khách” hơn.
Như vậy, khách quan mà nói trong thời gian ”còn lận đận” chưa ai biết đến, Nguyễn Tất Nhiên gặp được một tri kỹ khám phá & tận tình phổ nhạc mà không có hậu ý thương mại nào. Đó là nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang (1944 – 2010), một nhân tài VN sống phục vụ lý tưởng Hướng Đạo cho đến tận cuối đời. Còn về phía nhạc sĩ Phạm Duy mãi đến 2 năm sau mới nhìn thấy chân tài của Nguyễn Tất Nhiên và “phải” phổ nhạc những vần thơ đó chỉ vì mục đích tư lợi như từng thố lộ ở phần trên. Qua đó cũng bộc lộ rõ bản chất ích kỷ suốt đời sống bất chấp đạo đức & dư luận của Phạm Duy, mà chúng ta ai cũng đã từng chứng kiến trong quá khứ.
Ngẫm nghĩ lại, Chúa Jesus há chẳng từng nói “Của Ceasar hãy trả lại cho Ceasar” với hàm ý rằng không ai có thể che lấp mãi về sự thực, rồi thì cũng có lúc sự thực sẽ lộ dạng. Cho nên hãy cùng nhau góp phần nhanh chóng trả lại Sự Thực cho Nguyễn Tất Nhiên để giúp linh hồn của nhà thơ yểu mạng này được cứu rỗi & mãn nguyện bên kia thế giới.
5 ) Tại sao thơ của Nguyễn Tất Nhiên đã lôi cuốn được tuổi trẻ?
Thơ của Nguyễn Tất Nhiên lôi cuốn tuổi trẻ… mới lớn vì thể hiện tâm tình và vần điệu rất học trò. Những dòng thơ quá si tình đánh đúng vào “tim đen” của đại đa số đã từng một thời đơn phương ôm ấp một hình ảnh vượt quá tầm tay và đến nỗi:
Thà như giọt mưa
Khô trên tượng đá
Có còn hơn không
Thơ Nguyễn Tất Nhiên thể hiện rất… nhân bản. Lúc mê thích thì vội vã ca tụng, để rồi lúc tỉnh mộng “uổng mớ tình si” thấy sự thực vào năm 1972 thì đâm ra “bôi lọ”:
Em nhớ giữ tính tình con gái Bắc
Nhớ điêu ngoa nhưng giả bộ ngoan hiền
Nhớ dịu dàng nhưng thâm ý khoe khoang
Nhớ duyên dáng ngây thơ… mà xảo quyệt
Nhưng chỉ thời gian ngắn sau đó… hối hận sáng tác bài thơ “Tạ lỗi cùng người ” thú nhận “lỗi lầm” của mình:
Năm năm trời … có một người tên Duyên
Ta ca tụng rồi chính ta bôi nhọ
Tình ta đẹp nhưng tính ta còn nít nhỏ
Nên lỗi lầm đã đục màu sông
Đốt… đuốc đi tìm trong làng văn thơ VN và cả thế giới nữa, chắc khó tìm thấy được một thi sĩ quá… thành thực dám “bôi lọ” thần tượng, dám công khai hối hận và dám “tạ lỗi” như cỡ Nguyễn Tất Nhiên. Đó là điểm dễ thương đặc biệt nhất của nhà thơ yểu mệnh này. Nhìn lại lịch sử nhân loại, đôi khi cho thấy chính hoàn cảnh cực đoan xảy cho bản thân là nguồn cảm hứng thúc đẩy cho nhiều người bất ngờ để lại cho hậu thế những sáng tác và công trình bất hủ. Giả sử, nếu Tư Mã Thiên không bị “nhục hình” (đến nỗi uất ức đóng cửa để chuyên tâm viết sách!) thì chắc gì tác phẩm Sử Ký lừng danh đã ra đời được. Hoặc nhạc sĩ Đặng Thế Phong bị bịnh nan y hết thuốc chữa, thấy tử thần lởn vởn bên cạnh mới gảy ra được điệu nhạc não nùng “Con Thuyền Không Bến“. Cũng như đệ nhứt thi hào Nguyễn Du được nguồn thi hứng ghê lắm khi tìm ra tri âm qua cuộc đời người kỹ nữ Thúy Kiều để sáng tác ra tác phẩm độc nhứt vô nhị Đoạn Trường Tân Thanh (Truyện Kiều). Xét cho cùng, Nguyễn Tất Nhiên hưởng được nguồn thi hứng tuyệt vời trong “5 năm si tình” từ 1967 đến 1972 với cuộc “tình si” cùng cô bạn học Bắc kỳ tên Duyên. Giả sử vào lứa tuổi 15 không gặp gỡ được một nhân vật nữ có cá tính “đặc biệt” như vậy, có lẽ Nguyễn Tất Nhiên cũng chỉ làm thơ hay cỡ như các bạn học đồng môn Hà Thu Thủy, Đinh Thiên Phương, Nguyễn Thị Hiền, Tưởng Dung, Nguyễn Thị Minh Thủy… và không chắc gì đã được chọn phổ nhạc tình học trò, để từ đó vang danh khắp nơi.
Lời kết
Nhưng câu hỏi cuối cùng được đặt ra: từ đâu Nguyễn Tất Nhiên lại có tánh lãng mạn đa tình quá vậy để dễ dàng “phóng bút” sáng tác thơ tình cho nhiều nhân vật nữ?.
Xét cho cùng, ngoài cá tính sẵn có, Nguyễn Tất Nhiên có 2 cơ hội “thuận tiện“:
a) tại trường trung học Ngô Quyền, nhờ Thầy Hiệu Trưởng Phạm Đức Bảo và ban Giám Đốc từng có những quyết định… táo bạo, dễ thương là mang “nhét ” một số nữ sinh vào lớp nam sinh (hoặc ngược lại!). Qua đó vào lúc 15 tuổi, Nguyễn Tất Nhiên và Duyên có cơ hội học chung với nhau trong lớp đệ Tứ vào niên khóa 1967/1968 để khởi đầu làm quen cho “5 năm si tình “. Nên nhớ, cũng nhờ quyết định cho nam nữ học chung lớp đã khiến nhiều cặp NQ quen nhau, rồi thương nhau để có khi thành bạn đời… mãi mãi. Như vậy, thực sự công lao của ban giám đốc NQ không phải… nhỏ đâu. Không có trường NQ với các nữ sinh “đặc biệt” như Bùi Thị Duyên, Hoàng Thị Kim Oanh, Nguyễn Thị Minh Thủy … thì khó lòng mà có những dòng thơ học trò Nguyễn Tất Nhiên và những cuộc tình học trò lãng mạn hơn “ba mươi năm chờ đợi“.
b) tại trường tiểu học Nguyễn Du năm 1957, lúc Nguyễn Tất Nhiên chỉ mới 5 tuổi đã được Cô giáo Hạnh đặc cách cho phép vào học lớp 1, mà người dì út (tên là Minh Nguyệt) đang theo học. Nguyễn Tất Nhiên sớm va chạm sinh hoạt nam nữ ngay từ đó (xem hình ảnh phía dưới). Biết đâu đúng như khoa học và nhà tâm lý học lừng danh Sigmund Freud (1856 – 1939) từng phân tích chứng minh rằng trong tiềm thức, con người đã bị ngoại cảnh chung quanh ảnh hưởng liên tục từ ngay lúc còn nằm trong bụng mẹ.
Chính vì vậy, cuối cùng vẫn là lời… cám ơn trường tiểu học Nguyễn Du và trường trung học Ngô Quyền của xứ bưởi Biên Hòa đã tạo nên môi trường thuận tiện để nảy nở được những vần thơ học trò vô cùng lãng mạn như Nguyễn Tất Nhiên từng sáng tác.
(Tiếp nối chủ đề mùa thu, [dongnhacxua.com] vui mừng được giới thiệu bản nhạc “Nước mắt mùa thu” mà nhạc sỹ Phạm Duy đã ưu ái dành tặng cho nữ danh ca Lệ Thu. Ở đây nếu tinh ý sẽ nhận ra khả năng sử dụng ngôn ngữ rất khéo của nhà nhạc sỹ: “lệ” cũng có nghĩa là “nước mắt”, như vậy “Lệ Thu” có nghĩa là “nước mắt mùa thu”.)
Ca sỹ Lệ Thu. Ảnh: http://my.opera.com/diemxuacafe
Lệ Thu nổi tiếng từ lâu lắm rồi. Tên tuổi cô gắn liền với rất nhiều ca khúc như “Hương xưa” của Cung Tiến, “Ngậm ngùi” của Phạm Duy, “Thu hát cho người” của Vũ Ðức Sao Biển, “Tình khúc thứ nhất” của Nguyễn Ðình Toàn ố Vũ Thành An,… Cho đến bây giờ, sau gần 50 năm cuộc đời ca hát, cô vẫn là giọng hát được đứng lên vỗ tay tại nhiều đêm ca nhạc. Người ta đã viết nhiều, ca ngợi nhiều về cô. Hôm nay, chúng ta chỉ nhắc với nhau đôi nét vui vui trong cuộc đời cô..
Lệ Thu nguyên quán ở Hà Ðông, nhưng ra đời ở Hải Phòng. Tên thật là Bùi Thị Oanh.
Một buổi sáng mùa Ðông, Lệ Thu đã kể chuyện thời thơ ấu của cô: Bố mẹ Thu có 8 người con nhưng không biết tại sao các con cứ đến 2, 3 tuổi là đã qua đời. Ðến lượt Thu, mới ra đời là các cụ vội gửi vào trường các bà soeur. Mẹ kể rằng lúc mang bầu Thu, cụ đi chùa, nằm mơ thấy một ông mặt đỏ trao cho một bọc, trong có đứa bé. Chẳng biết vì ông cụ đó hay vì các bà soeur mà Thu sống được sau 4 anh chị đã qua đời. Thu học đàn, học nhạc từ nhỏ trong trường bà soeur.
Thực ra, tên Thu theo các cụ định thì không phải là Bùi Thị Oanh. Thầy Thu làm chức tước nhỏ gì đó ở làng hay huyện Ðông Xá. Mẹ Thu là thiếp, thua thầy đến gần 30 tuổi. Thầy dặn mẹ là nếu sinh con gái thì đặt tên là Bùi Trâm Anh, còn nếu con trai thì đặt là Bùi Gia Bảo. Thế lúc đi làm giấy tờ, Tây nó hỏi, cụ sợ, theo nếp cũ là con trai thì lót tiếng “Văn,” con gái thì lót chữ “Thị,” nên bèn khai đại là Bùi Thị Oanh. Cho nên trong nhà vẫn gọi Thu là Trâm chứ không gọi là Oanh.
Trong gia đình, họ hàng của Lệ Thu có rất nhiều người hát hay. Theo Lệ Thu, “Nếu dễ dãi mà cho rằng Lệ Thu hát hay, thì những người kia phải là hát cực hay. Lệ Thu không ăn thua gì so với những người đó.” Thí dụ ông cậu Lệ Thu tên là Phúc mà anh Hoàng Hải Thủy cũng có biết, hoặc anh Ðoàn là anh họ của Thu cũng vậy. Không ai trong gia đình Thu đi hát cả vì các cụ khó lắm. Ông bà ngoại Thu có 9 người con, rất nhiều người hát hay trong đám con cháu các cụ, nhưng không ai dám đi hát.
Lệ Thu vào Nam năm 1953. Hằng ngày đến trường, ở nhà, lúc nào cũng ê a hát vài câu. Ðược mọi người khen lại càng hát tợn, nhưng dĩ nhiên là các cụ không biết. Khoảng năm 1960, 1961, lúc đang học thi tú tài, bạn bè hay rủ Thu lên ăn uống ở nhà hàng Bồng Lai. Nhân buổi sinh nhật hay gì đó của một cô bạn, bọn bạn bè tự động giới thiệu Thu lên hát một bài. Thu kể: “Mình tuy thuộc loại bạo gan và hay nghịch, nhưng tự nhiên bị xách đầu lên hát cũng thấy e ngại. Sau khi hát xong vừa trở về bàn là ông Lê, giám đốc nhà hàng đến tìm Thu. Ông ta hỏi Thu muốn đi hát không, sẽ có thù lao như thế này này. Mới tý tuổi đầu, thấy kiếm được tiền nhờ ca hát là Thu nhận lời. Kệ, cứ đi hát xem sao. Nhưng phải dấu các cụ.”
Lúc đầu Thu hát ít thôi, đến hát xong là về, nói dối là đến nhà bạn bè họp bài, làm bài chung. Nhưng rồi có một anh chàng, trước đây vốn vẫn thích Thu, bắt gặp Thu đi hát bèn mách cụ bà rằng “Con Oanh cuối tuần nó vẫn đi hát đấy, chứ không phải đi học hay đi chơi với bạn bè đâu.” Cụ sợ quá, đang chứa “một trái bom nổ chậm trong nhà,” nay nó lại tự động gắn thêm một đống ngòi nổ nữa! Thế là cụ tống Thu đi lấy chồng. Nhưng Thu vẫn mê hát.
Lúc thành hôn, Thu còn bé, mới có 18 tuổi, chẳng biết bổn phận làm vợ là cái gì cả, lại còn thích hát, gia đình nhà chồng cho rằng, Thu thuộc loại “xướng ca,” như vậy không được. Thế là chỉ có vài tháng, chồng bỏ mất rồi. “Ai biểu lấy con nít về làm vợ làm chi,” Thu cười.
Về tên Lệ Thu, trong một lần đến chơi bệnh viện Cộng Hòa thăm ông cậu làm việc ở đó, gặp dịp lễ lạt bệnh viện dự định tổ chức văn nghệ cho thương bệnh binh giải trí. Ông cậu hỏi Thu: Cháu muốn hát không? Lúc đó Thu chưa đi hát bao giờ, nhưng vẫn gật đầu bừa, nhưng lại sợ mẹ. Cậu hứa sẽ về “nói với mợ cháu là đi chơi với cậu thì mợ yên tâm.”
Ðến lúc lên hát, bất ngờ người ta hỏi tên là gì để còn giới thiệu. Thu ú ớ, nói bừa là Mộng Thu. Sau thấy chữ Mộng có vẻ mộng mị quê mùa quá, nhưng lỡ dính chữ “Thu,” nên lấy tên “Lệ Thu” cho rồi. Thu vội nói với ông animateur, bây giờ gọi là ông MC, “Này ông ơi, tên tôi là Lệ Thu nhé.” Thực ra không biết từ bao giờ, thuở còn bé lắm, Thu cứ thích tên Thu. Còn chữ Lệ thì lúc sắp lên hát cuống quá, lấy đại cho rồi, nhưng chắc cả hai chữ đó lởn vởn đâu đó trong tiềm thức.
Lệ Thu cho biết: Ðọc sách Thu cũng biết chữ “lệ” có nghĩa là vẻ đẹp, cũng có nghĩa là nước mắt. Không biết lúc bật ra cái tên tiền định đó, Thu suy nghĩ theo chiều hướng nào. Khi đang hát độc quyền ở phòng trà Queen Bee, dư luận cho rằng Thu hát đặc biệt hay một số bài của Phạm Duy như “Ngậm ngùi, Bên cầu biên giới, Thuyền viễn xứ…”
Mấy nhà văn nhà báo như anh Duyên Anh, anh Hà Huyền Chi cũng khen ngợi. Có lẽ vì vậy anh Phạm Duy làm bài “Nước mắt mùa Thu” sau khi nghe mọi người khen hát hay bài đó, cũng tặng Thu luôn. Còn anh Nguyễn Mạnh Côn thì phê bình Thu một câu, rằng là cô rất xinh, cô hát rất hay, nhưng khi hát bài “Ngậm ngùi,” thơ của người ta là “Tay anh em hãy tự đầu,” tại sao cô lại hát thành “Tay em anh hãy tựa đầu,” sao có chuyện ngược đời như vậy. Lúc đó Thu mới biết hóa ra chữ nghĩa cũng rắc rối lắm chứ, chỉ vì mình còn nhỏ, chẳng chịu học hỏi tìm tòi gì cả. Từ khi bị anh Côn mắng như vậy, Thu đã cẩn thận hơn nhiều. Lúc đó khoảng năm 1969 thì phải. Anh Hà Huyền Chi cũng làm bài thơ “Lệ đá,” anh Trần Trịnh phổ nhạc, Thu hát được anh khen rồi tặng luôn cho Thu.
Tên tuổi Thu gắn liền với một số bài vừa mới kể trên, nhưng hình như còn một số bài Thu hát đặc biệt hay như bài “Hương xưa.” Lệ Thu kể chuyện: “Thu còn nhớ có lần hát bài ‘Hương xưa’ với chỉ một người đệm đàn dương cầm. Sau này mới biết là hôm đó có anh Mai Thảo cũng đến nghe. Anh Mai Thảo có nói với Hoàng Dược Thảo là ‘Lệ Thu bất tử với Hương Xưa.’”
Nhưng các bạn có biết là sau khi hát xong bài đó, mồ hôi Thu ướt đẫm. Ði qua ông La Thoại Tinh, dương cầm thủ, Thu nói: “Trời ơi, tôi run quá. Ông ta bèn xòe bàn tay cho coi, cũng ướt đẫm mồ hôi. Bởi vì hồi đó rất hiếm khi người ta hát với chỉ một người đệm piano, thường bao giờ hát cũng với một ban nhạc, nhờ đó tiếng hát của mình dễ được nâng cao hơn, cái khiếm khuyết của mình dễ được che dấu hơn. Nhưng hát với chỉ một cây đàn dương cầm thì rất đáng ngại vào thời buổi đó.
Lệ Thu kể lại chuyện vui buồn trong đời ca hát
Ngay từ những ngày chập chững đi hát cho vui, như hôm hát ở Tổng Y Viện Cộng Hòa chẳng hạn, đã nhiều chuyện vui rồi. Hôm đó, có một bài Lệ Thu phải hát hợp ca với các anh chị thuộc Ban Nhạc Tổng Y Viện Cộng Hòa, hình như bài “Tiếng hò miền Nam” thì phải. Ðến phần solo, Lệ Thu hùng dũng hát “Ðây có đoàn người dân di cư, vang câu hát tình quê dạt dào,…” Tự nhiên Thu nghe ở dưới cười ồ lên, chẳng biết tại sao.
Ngay lúc đó tự nghĩ mình hát được mà, có sai nhịp, sai nốt nào đâu, sao thiên hạ lại cười nhỉ. Nhìn lại quần áo mình đang mặc có gì là lố bịch đâu. Hóa ra Thu đã hát: “Ðây có một người dân di cư,…” Lúc sắp hát, mình lo sợ, chỉ sợ trật nhịp, sợ sai nhạc, thành ra không để ý đến lời. Sau đó mấy anh mới nói: “Ai chẳng biết một mình cô di cư!” Ngay từ lúc tập tễnh hát, Thu đã tự nhủ một điều là luôn luôn phải hát rõ lời bài hát, thì rõ ràng là chữ “một” chắc chắn phải khác chữ “đoàn” rồi.
Về chuyện nhạc lý, Thu chỉ nhớ hồi bé học nhạc trong trường bà soeur. Sau này học nhạc với một bà đầm khi nhà ở đường Võ Tánh. Bà ấy dạy piano, nhưng Thu chỉ học classic.
Lệ Thu ở lại sài Gòn sau 1975 vì mẹ không đi. Lúc đó cụ khoảng 65 tuổi. Thu cũng theo chân bạn vào đủ các nơi, từ Tòa Ðại Sứ Mỹ đến bến Chương Dương. Lúc đó Thu còn ở với Hồng Dương. Vào một dịp khác, Lệ Thu sẽ kể chúng ta nghe về những ngày còn kẹt lại Việt Nam.