Văn Cao (1923-1995): Khoảng lặng đời người

Nhân dịp kỷ niệm 90 năm ngày sinh của nhạc sỹ Văn Cao (15/11/1923 – 10/07/1995), cây đại thụ của nền tân nhạc Việt Nam, [dongnhacxua.com] xin được phép đăng lại một bài viết cho thấy một góc nhìn khác về những ‘khoảng lặng’ trong cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà nhạc sỹ. Qua bài viết này, xin được đại diện cho hàng triệu người yêu nhạc thế hệ sau, [dongnhacxua.com] kính chúc linh hồn Nhạc Sỹ vui hưởng hạnh phúc tràn đầy nơi chốn ‘Thiên Thai’, như trong một sáng tác bất hủ khác của ông!

Buồn tàn thu (Văn Cao). Ảnh: VietStamp.net
Buồn tàn thu (Văn Cao). Ảnh: VietStamp.net

buon-tan-thu--1--van-cao--vietstamp.net--dongnhacxua.com

CỐ NHẠC SỸ VĂN CAO: KHOẢNG LẶNG ĐỜI NGƯỜI
(Nguồn: XaHoi.com.vn)

Cố nhạc sĩ Văn Cao là một bậc kỳ tài trong nhiều lĩnh vực nhưng ông được biết đến nhiều nhất ở vai trò của một nhạc sĩ. Vẻ đẹp bảng lảng, thoát tục, giai điệu uyển chuyển của Buồn tàn thu, Thiên Thai, Trương Chi, Suối mơ,… đã làm say mê và cuốn hút bao người yêu nhạc. Cuộc đời nhạc sĩ Văn Cao có nhiều thăng trầm gắn liền với những biến thiên của lịch sử và sự khắc nghiệt trước cái nhìn của thời cuộc. Viết về ông, có lẽ cần cả một cuốn sách với cái nhìn thấu đáo. Bởi, đó là một cuộc đời lớn, cuộc đời của một thiên tài. Bài viết này chỉ là một nét phác họa về người nghệ sỹ tài hoa…

Chân dung Văn Cao. Ảnh: Nguyễn Thụy Kha.
Chân dung Văn Cao. Ảnh: Nguyễn Thụy Kha.

Vẻ đẹp tiên thiên trong tình ca

Đến giữa thập niên 30, nền tân nhạc Việt Nam đã có những bước tiến vững chắc. Những cái tên như Lê Thương, Đặng Thế Phong, Đoàn Chuẩn, Hoàng Quý,… đã tạo nên một diện mạo mới cho tân nhạc và gây ảnh hưởng lớn đến tinh thần thưởng ngoạn âm nhạc của giới trí thức lúc bấy giờ.

Trong dòng chảy đó, cuối năm 1939, Buồn tàn thu – ca khúc đầu tiên của nhạc sĩ Văn Cao ra đời. Năm đó ông vừa tròn 17 tuổi. Đầu năm 1940, Buồn tàn thu được chàng ca sĩ mê xê dịch Phạm Duy (nhạc sĩ Phạm Duy sau này) “gieo buồn đi khắp chốn” và tạo nên một hiệu ứng trong giới yêu nhạc thời ấy. Dù còn phảng phất sự ảnh hưởng của Lê Thương và Đặng Thế Phong nhưng Buồn tàn thu, với lời ca đầy chất thơ, tứ nhạc phong phú, nét nhạc thanh thoát đã hứa hẹn một tài năng. Quả vậy, sau đó ít lâu, Thiên Thai, Trương Chi, Suối mơ, Bến xuân, Thu cô liêu của Văn Cao qua tiếng hát Phạm Duy đã thổi một làn gió mát vào lòng người yêu nhạc, ngày ấy và cả bây giờ.

Nhạc sĩ Văn Cao tại nhà, tháng 7/1992. Ảnh: Nguyễn Thụy Kha
Nhạc sĩ Văn Cao tại nhà, tháng 7/1992. Ảnh: Nguyễn Thụy Kha

Ngay từ thời còn đi học, tài năng âm nhạc của Văn Cao đã sớm được bộc lộ. Văn Cao họ Nguyễn, bạn bè vẫn thường gọi ông bằng cái tên thân thuộc – anh Văn. Ông cất tiếng khóc chào đời vào ngày 15/11/1923 tại bến Bính, bên dòng sông Cấm, Hải Phòng. Cha (có tài liệu ghi là anh) của ông làm cai của nhà máy bơm nước ở bờ sông đó nên suốt thời niên thiếu, ông sống cùng tiếng ồn ào của cái máy bơm rất lớn nằm chình ình giữa nhà suốt ngày đêm hút nước từ dưới sông lên. Ông học tiểu học tại trường Bonnal, trung học ở trường Saint Joseph và được học nhạc sơ lược ở đây. Về sau, ông có học thêm nhạc lý ở lớp Tạ Phước nhưng lúc mới bắt đầu soạn nhạc, ông tự học và… bắt chước nhạc ngoại quốc! Sau này, bình nhạc Văn Cao, nhiều nhà chuyên môn cho rằng ông còn vài điểm kém về nhạc lý, nhạc điệu nhưng hết thảy đều công nhận ông thực sự là một bậc kỳ tài.

Cũng cần “Phải thừa nhận rằng, nếu không có giọng hát của Phạm Duy, nhạc Văn Cao cũng khó mà phổ biến; trái lại nếu không có Văn Cao, chưa chắc Phạm Duy đã sáng tác! Cả hai hỗ trợ nhau, cùng dìu nhau đi vào bất tử!” (Tạ Tỵ, Những khuôn mặt văn nghệ đi qua đời tôi). Cố nhạc sĩ Phạm Duy, trong các bài viết sau này cũng nhiều lần nhắc đến tài năng của nhạc sĩ Văn Cao bằng sự kính trọng hết mực. Với giá trị hiển nhiên, nhạc Văn Cao đã vượt thoát qua cửa ải được trấn giữ lâu ngày bởi những đàn anh đi trước và đặt nền móng cho những thế hệ đi sau.

Tinh hoa phát tiết

Tài hoa của Văn Cao còn phát động sang nhiều lĩnh vực khác, nói như nhà văn Vũ Bằng thì, cái gì Văn Cao cũng biết, từ đàn ca, hát xướng cho đến vẽ vời. Trong đó, bên cạnh âm nhạc thì đáng chú ý hơn hết thảy là thơ ca và hội họa. Theo họa sĩ Tạ Tỵ, Văn Cao tuy chỉ học có hai năm ở trường Mỹ thuật Đông Dương với tư cách là sinh viên dự thính, nhưng lại có một tài họa kỳ lạ, hứa hẹn rất nhiều. Bức Cuộc vũ của những người tự sát theo trường phái lập thể được ông trưng bày trong “Cuộc triển lãm độc nhất” (Salon unique) hồi 1943 cùng hai bức Cây đàn đỏ và Đường cấm trong triển lãm tự do tại Liên khu ba vào năm 1949 đến giờ vẫn được nhiều họa sĩ nhắc đến. Văn Cao còn phát hành tuyển tập nhạc do ông tự tay trình bày bìa bằng những bức tranh avant garde rất độc đáo mà lúc đó chưa ai nghĩ ra cách như vậy. Tiếc là, qua nhiều dâu bể, những tác phẩm này chỉ còn lại trong ký ức của bè bạn ông.

Văn Cao, trong ký ức của bạn bè, rất tài hoa mà cũng quá đỗi tài tử. Sinh thời, ông mê rượu và thuốc lào. Một lần, nhà thơ Phùng Quán đang ngồi quán uống trà thì thấy Văn Cao cùng một người bạn liêu xiêu từ quán rượu bước ra. Văn Cao hỏi mượn Phùng Quán năm đồng, Phùng Quán vét sạch túi đưa hết cho ông ba đồng. Lát sau thì thấy bà Băng (vợ nhạc sĩ Văn Cao) hớt hãi đi tìm ông. Thì ra, ông đã để người khách từ Hà Giang xuống nhờ vẽ cái nhãn chè với thù lao 50 đồng và 10 gói chè loại I chờ dài cổ! Hôm sau, Phùng Quán hỏi, Văn Cao lắc đầu: “Mình cần tiền nhưng cũng vô cùng chán tiền!” Con người tài hoa, trong hoàn cảnh túng thiếu, thà vay mượn để thỏa cái sở thích của mình chứ không chấp nhận đem tài năng ra bán buôn, đổi chác !

Nhạc sĩ Văn Cao (thứ 2, từ phải qua) và bè bạn. Ảnh: Nguyễn Thụy Kha
Nhạc sĩ Văn Cao (thứ 2, từ phải qua) và bè bạn. Ảnh: Nguyễn Thụy Kha

Năm 1944, Văn Cao gia nhập Cách mạng và được giao soạn một bài hát nhân ngày kháng Nhật. Tháng 11 năm 1944, Tiến quân ca được hoàn thành nhưng mãi đến ngày 17/8/1945, nó mới thực hiện nhiệm vụ lịch sử của mình. Trong buổi mít-tinh của công chức tại Nhà hát lớn Hà Nội, Tiến quân ca được Phạm Duy “cướp micro” hát lần đầu tiên trước quần chúng. Sau 19/8, tên tuổi Văn Cao nổi như cồn. Đầu năm 1946, trong kỳ họp Quốc hội khóa đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Quốc hội đã quyết định chọn Tiến quân ca làm Quốc ca của nước ta. Tiếp theo Tiến quân ca, nhạc sĩ Văn Cao hầu như chỉ viết những bản nhạc hùng ca Chiến sĩ Việt Nam, Bắc Sơn, Sông Lô, Tiến về Hà Nội,… duy có Ngày mùa và Làng tôi (1947) mang đậm âm hưởng dân ca.

Theo Vũ Bằng, khi Văn Cao nổi tiếng về nhạc, người ta mới giở lại những bài thơ của Văn Cao được đăng tải trên Tiểu thuyết thứ Bảy cùng vài tờ báo khác. Đến lúc đó người ta mới thấy thơ Văn Cao hay cũng như nhạc của ông. Vậy là thơ Văn Cao được đưa ra mổ xẻ và ca ngợi ầm lên, Văn Cao thành ra một thứ “sản phẩm trác tuyệt của những năm bốn mươi”! Theo thời gian, thơ Văn Cao vẫn có chỗ đứng riêng, vì giá trị thực của nó chứ không lóe lên chỉ vì sự tung hô nhất thời với những bài thơ đậm chất thời sự như Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Ngoại ô mùa đông 46, Những người trên cửa Biển cùng nhiều bài thơ khác được in trong tập Lá, xuất bản năm 1988.

Một khoảng lặng…

Sau 1954, nhạc sĩ Văn Cao hầu như không viết nhạc nữa (hiếm hoi có Mùa xuân đầu tiên được ông viết vào năm 1976). Nguyên nhân sâu xa của việc này là do ông cảm thấy ám ảnh sau việc bắn Đỗ Đức Phin – tay mật thám của Nhật vào năm 1945 tại Hải Phòng. “Những ngày đầu sau chiến tranh, tôi đã trở lại căn nhà ấy, thấy còn lại một gia đình mẹ góa con côi. Làm sao tôi có thể nói điều cần thiết nhất đối với tôi trong những bài hát sau đó? Nói về chiến công hay phải nói một điều gì khác? Nên tôi im lặng, và chỉ viết nhạc-không-lời.”

Khi xảy ra vụ án Nhân Văn – Giai Phẩm vào năm 1958, Văn Cao cũng như nhiều văn nghệ sỹ có liên quan bị đẩy vào bóng tối. Bản Tiến quân ca, vì thế cũng chịu nhiều thăng trầm như người viết ra nó. Tuy nhiên, với giá trị tất yếu, Tiến quân ca vẫn là Quốc ca của nước ta cho đến ngày hôm nay cũng như vị trí vững chắc của nhạc sĩ Văn Cao trong lòng người yêu nhạc. Năm 1983, lần đầu tiên sau nhiều năm, những nhạc phẩm của nhạc sĩ Văn Cao được hát trở lại. Năm năm sau, cái án Nhân văn được dở bỏ. Ba mươi năm, đủ để bãi bể hóa nương dâu, đủ dằng dặc để thui chột mọi sự sáng tạo, đủ khủng khiếp để gò ép một tinh thần. Vết xước xưa khó lành nhưng ít nhất cũng có những thứ được trả về đúng với giá trị vốn có của nó.

Nhạc sĩ và người vợ tảo tần – bà Nghiêm Thúy Băng. Ảnh: Nguyễn Thụy Kha.
Nhạc sĩ và người vợ tảo tần – bà Nghiêm Thúy Băng. Ảnh: Nguyễn Thụy Kha.

Ngày 10/7/1995, nhạc sĩ Văn Cao ôm giấc mơ đời người về với cõi thiên thai…

Viết về ông, với cái nhìn của một người trẻ lớn lên trong sự bùng nổ của rất nhiều trào lưu âm nhạc, tôi chợt nhớ đến một câu thơ trong bài Hoàng hạc lâu của thi sĩ Thôi Hiệu: Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản. Con người ấy – với sự vĩ đại của một thiên tài, như nhà báo Nguyễn Thụy Kha nhận xét “Văn Cao là trời cho” và một nhân cách đáng trọng – cũng như một loài chim quý, ra đi không bao giờ trở lại và cũng không có sự lặp lại, mang theo bao sự vấn vương, ngưỡng mộ và đồng vọng của hậu thế.

[footer]

Duyên dáng Việt Nam 23 – Nhiều điểm sáng cho dòng nhạc xưa

Là một người sinh ra và lớn lên ở Phú Yên, vùng đất miền Trung thân yêu với núi Nhạn – sông Đà, chúng tôi rất tự hào khi xem chương trình Duyên Dáng Việt Nam lần thứ 23 tổ chức vào hai đêm 8-9/01/2011 ở nhà hát Sao Mai, khu du lịch Thuận Thảo, thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên.

Cảm nhận chung của DongNhacXua.com là chương trình đã thành công trong việc đưa giới thưởng ngoạn, có mặt ở nhà hát cũng như xem qua sóng VTV về với dòng nhạc xưa với chủ đề Nhớ.

Đạo diễn Nguyễn Quang Dũng cũng như người biên tập âm nhạc là nhạc sỹ Đức Trí đã có nhiều sáng tạo trong suốt chương trình: chuyển cảnh rất nhanh và nhịp nhàng, sử dụng dây kéo cho diễn viên múa rất khéo léo, dùng phông nền rộng với nhiều tư liệu phong phú về các thế hệ nhạc sỹ, ca sỹ đã không còn với chúng ta như Đoàn Chuẩn, Anh Tú, Ngọc Tân, v.v.

Riêng cá nhân tôi rất ấn tượng với màn chuyển cảnh từ bản “Đêm cuối cùng” của Phạm Đình Chương sang bài “Suối mơ” của Văn Cao với tam ca Lân Nhã, Quang Dũng và Đàm Vĩnh Hưng. Ngay giây phút ấy, chúng tôi cảm thấy như có một cái gì đó dù không còn nữa nhưng hình như vẫn còn vương vấn đâu đây. Đó có lẽ là chính hiệu ứng của những nhạc phẩm bất hủ mà giai điệu, ca từ không bao giờ phai nhạt theo năm tháng:

” …
Em ơi, đêm cuối cùng gần nhau
Sợ rằng một ngày mai giấc mộng không thành. ” (hai câu kết trong “Đêm cuối cùng)

hay
“…
Suối ơi!
Nghe rừng heo hút.
Giòng êm đưa lá khô già trút.
Còn như lưu hương yêu dấu,
Với suối xưa trôi nơi đâu. ” (đoạn kết của “Suối mơ”)

Một điểm nhấn khác của chương trình và sự kết hợp giữa một ngôi sao thời danh và 2 ngôi sao đã tắt: Đàm Vĩnh Hưng hát chung với Anh Tú trong “Lạc mất mùa xuân” (nhạc ngoại quốc, lời Việt của nhạc sỹ Lữ Liên, là thân phụ của chính ca sỹ Anh Tú, Tuấn Ngọc, Khánh Hà, v.v.) và Đàm Vĩnh Hưng cùng hòa giọng với Ngọc Tân trong “Khoảnh khắc” (của Trương Quý Hải). Sẽ rất khập khiễng khi đi so sánh hai giọng hát khác nhau nhưng dù sao cũng phải nói rằng ca sỹ Đàm Vĩnh Hưng đã rất nỗ lực và cố gắng hoàn thành tốt vai trò cầu nối hai thế hệ. Cá nhân tôi cảm thấy ca sỹ họ Đàm đã rất khiêm tốn trên sân khấu hôm đó để nhường những cảm xúc sâu thẳm nhất của khán giả cho hai ca sỹ tài danh nhưng yểu mệnh: Anh Tú (1950-2003) và Ngọc Tân (1948-2004).

Rất nhiều lần nhà tổ chức nhắc đến dòng nhạc bolero trong chương trình này nhưng cá nhân tôi thấy gọi như vậy chưa chính xác vì trong chương trình còn nhiều giai điệu không phải là dòng nhạc bolero (hay chúng tôi gọi là dòng nhạc “sến” với tất cả sự trân trọng chứ hoàn toàn không có ý chê bai). Tuy nhiên, nếu phải chọn ra vài ca sỹ là điểm nhấn của dòng nhạc “sến” thì có lẽ không ai xứng đáng bằng Mạnh Đình trong nhạc phẩm “Chuyện hẹn hò” (của Nhật Trường – Trần Thiện Thanh).

Hương Lan vẫn giữ phong độ với dòng nhạc này dù tuổi đời cũng không còn trẻ. Chị đã làm chúng tôi rơi nước mắt trong “Mẹ tôi” (của Nhị Hà).

Ngoài ra cũng phải kể đến ca sỹ Quang Linh và Cẩm Ly, những người đã mà theo chúng tôi đã “cứu” cả “chuyến đò” tốp ca trong tiết mục mở đầu “Chuyến đò quê hương” (của Vy Nhật Tảo).

Nhân nói đến đây thì chúng tôi xin mạn phép nêu ra vài điểm chưa đạt theo thiển ý của chúng tôi như sau:

  • Vài ca sỹ hoàn toàn không thích hợp với nhạc “bolero” nhưng cũng “cố gắng” góp giọng và đã không thành công: như Lân Nhã đã vào rất “phô” trong “Chuyến đò quê hương” mà chúng tôi đã nói ở trên. Tuy nhiên anh đã rất thành công với “Như một lời chia tay” (của Trịnh Công Sơn) ở phần sau.
  • Quang Dũng rất vững vàng và đầy kỹ thuật trong “Chiếc lá cuối cùng” (của Tuấn Khanh) nhưng anh lại quá sa đà vào việc phô diễn kỹ thuật thành ra khán giả chưa được lắng đọng với “đêm chia ly buồn gì sao chẳng nói” mà tác giả Tuấn Khanh muốn chuyển tải. Tuy nhiên sau đó Quang Dũng lại rất thành công với “Lá đổ muôn chiều” (của Đoàn Chuẩn – Từ Linh). Có lẽ chi tiết “ngày mai người em nhỏ bé ngồi trong thuyền hoa, tình duyên đành dứt …” làm cho Quang Dũng có nhiều cảm xúc hơn chăng !?
  • Tên tác giả của “Trộm nhìn nhau” là Trầm Tử Thiêng chứ không phải “Trầm Tử Thiên” như mà hình đã hiện ra
  • Dương Triệu Vũ có hát được giọng Phú Yên trong “Trách phận” nhưng anh hình như sợ người nghe nhận ra điểm yếu của mình hay sao đó mà anh hát nhanh quá thành ra chính người Phú Yên như chúng tôi cũng khó mà nghe kịp lời hát
  • Năm sinh và năm mất của ca sỹ Ngọc Tân (1948-2004) được chương trình chiếu lên (1950-2003) chưa đúng. Có lẽ đạo diễn lộn với năm sinh và năm mất của Anh Tú

Tóm lại: Duyên Dáng Việt Nam 23 tại Phú Yên đã để lại rất nhiều cung bậc cảm xúc cho khán giả, xứng đáng là một trong những chương trình ca nhạc chủ đề hay nhất Việt Nam.

[footer]